Các lý thuyết về quốc tế hóa
Các lý thuyết về quốc tế hóa
Các lý thuyết về quốc tế hóa
Phương thức
hoạt động
Thị trường Xuất khẩu Cấp phép Liên Doanh Đầu tư trực tiếp
(quốc gia)
Thị trường A Sự tăng lên của cam kết với thị trường
lý
Sư tăng lên của phân tán địa
Sự
Thị trường B t ăn
g lên
Thị trường C của
qu
ốc
t ếh
Thị trường D óa
Thị trường N
Hình 1.3. Quá trình quốc tế hóa tiếp cận theo từng giai đoạn
Mô hình trên là nghiên cứu mở rộng của Welch và Loustarinen (1988). Nghiên
cứu này cho rằng hoạt động quốc tế hóa của tổ chức dựa trên sáu yếu tố (xem Hình
1.4):
1. Sản phẩm đem bán (cái gì?): Hàng hóa, dịch vụ, bí quyết và hệ thống;
2. Phương thức hoạt động (như thế nào?): Đại lý, doanh nghiệp con, hợp đồng cấp
phép, nhượng quyền quản lý;
3. Thị trường (ở đâu?): Sự khác biệt về khoảng cách chính trị / văn hóa / tâm lý / vật lý
giữa các thị trường;
4. Cơ cấu tổ chức: bộ phận xuất khẩu, bộ phận quốc tế;
5. Tài chính: sẵn có các nguồn tài chính quốc tế để hỗ trợ các hoạt động kinh doanh
quốc tế;
6. Nhân sự: kỹ năng, kinh nghiệm và đào tạo quốc tế.
Như vậy việc quốc tế hóa và mức độ quốc tế hóa của doanh nghiệp phụ thuộc các
yếu tố này.
2.2.2. Lý thuyết phân tích chi phí giao dịch (TCA model)
Nền tảng cho lý thuyết này được tạo ra bởi Coase (1937). Ông lập luận rằng "một
doanh nghiệp sẽ có xu hướng mở rộng cho đến khi chi phí tổ chức thêm một giao dịch
trong doanh nghiệp sẽ bằng với chi phí thực hiện cùng một giao dịch thông qua trao
đổi trên thị trường mở". Lý thuyết này dự đoán rằng doanh nghiệp sẽ thực hiện những
hoạt động mà họ có thể thực hiện với chi phí thấp hơn thông qua việc thiết lập một hệ
thống kiểm soát và thực hiện quản lý nội bộ (phân cấp) trong khi dựa vào thị trường
cho các hoạt động mà bên ngoài độc lập (chẳng hạn như trung gian xuất khẩu, đại lý
hoặc nhà phân phối) có lợi thế về chi phí.
Phương thức hoạt
động nước ngoài
Như thế nào: xuất khẩu, cấp phép, nhượng
quyền, liên doanh, đầu tư trực tiếp
Đối tượng bán
Cái gì: hàng hóa, dịch Thị trường:
vụ, bí quyết, hệ thống Ở đâu: khác biệt văn
hóa, chính trị, khoảng
cách địa lý
Nếu chi phí giao dịch cao hơn chi phí kiểm soát
qua hệ thống nội bộ thì:
“Quốc tế hóa”a;
Quốc gia A
Quốc gia A
Nội bộ Hãng:
Người
Chi nhánh
mua:
nước ngoài
Hình 2.3 Mô hình phân tích chi phí giao dịch TCA
Chi phí giao dịch xuất hiện khi thị trường không hoạt động theo yêu cầu của cạnh
tranh hoàn hảo, chi phí hoạt động trên các thị trường như vậy (tức là chi phí giao dịch)
sẽ bằng 0 và sẽ có rất ít hoặc không có động cơ để áp đặt bất kỳ trở ngại nào đối với
trao đổi thị trường tự do. Tuy nhiên, trong thế giới thực luôn có một số loại mâu thuẫn
giữa người mua và người bán, dẫn đến chi phí giao dịch (xem Hình 2.3).
Sự mâu thuẫn giữa người mua và người bán thường có thể được giải thích bằng
hành vi cơ hội. Nó bao gồm các phương pháp gây hiểu lầm, bóp méo, ngụy tạo và
nhầm lẫn. Để bảo vệ khỏi các nguy cơ của chủ nghĩa cơ hội, các bên có thể sử dụng
nhiều biện pháp bảo vệ hoặc cơ cấu quản trị. Thuật ngữ "biện pháp bảo vệ" (hay còn
gọi là "cơ cấu quản trị") được sử dụng ở đây có thể được định nghĩa là một cơ chế
kiểm soát, có mục tiêu mang lại nhận thức về sự công bằng hoặc bình đẳng giữa các
giao dịch viên. Mục đích của các biện pháp bảo vệ là cung cấp, với chi phí tối thiểu, sự
kiểm soát và tin cậy cần thiết để các bên tham gia giao dịch tin rằng giao dịch sẽ tốt
hơn và công bằng hơn. Biện pháp bảo vệ nổi bật nhất là hợp đồng pháp lý. Hợp đồng
pháp lý quy định nghĩa vụ của mỗi bên và cho phép người giao dịch đến bên thứ ba
(tức là tòa án) để xử phạt một đối tác thương mại cơ hội.
Khung phân tích chi phí giao dịch (TCA) lập luận rằng việc giảm thiểu chi phí
giải thích các quyết định cơ cấu. Các doanh nghiệp nội bộ hóa, nghĩa là, tích hợp theo
chiều dọc, để giảm chi phí giao dịch. Chi phí giao dịch có thể được chia thành các
dạng chi phí khác nhau liên quan đến mối quan hệ giao dịch giữa người mua và người
bán. Phương trình sau mô tả điều kiện cơ bản về các yếu tố chi phí là:
Chi phí giao dịch = Chi phí trước + Chi phí sau = (chi phí tìm kiếm + chi phí ký hợp đồng) + (chi
phí giám sát + chi phí thực thi)
Quốc gia D
Quốc gia C
Doanh
nghiệp
Đại lý
Ngâ con bán
hàng
Người n Người
tiêu dùng hàn tiêu dùng
g
Đặc tính của các mối quan hệ trong một mạng lưới là vấn đề của các doanh
nghiệp liên quan. Các mối quan hệ này chủ yếu xảy ra với các ràng buộc kỹ thuật, kinh
tế và pháp lý. Tuy nhiên, ở một mức độ quan trọng, mối quan hệ được hình thành giữa
những người tham gia vào các mối quan hệ kinh doanh. Đây là trường hợp có quan hệ
xã hội và nhận thức. Các ngành cũng như các quốc gia có thể khác nhau về tầm quan
trọng tương đối của các mối quan hệ cá nhân và doanh nghiệp, nhưng ảnh hưởng của
cá nhân đối với các mối quan hệ là mạnh nhất trong giai đoạn đầu thiết lập các mối
quan hệ. Sau đó, các quy trình và hệ thống sẽ trở nên quan trọng hơn.