bàn về vấn đề bảo hộ sáng chế dược phẩm tại việt nam tiếp cận dưới góc độ quyền con người kỳ 2
bàn về vấn đề bảo hộ sáng chế dược phẩm tại việt nam tiếp cận dưới góc độ quyền con người kỳ 2
bàn về vấn đề bảo hộ sáng chế dược phẩm tại việt nam tiếp cận dưới góc độ quyền con người kỳ 2
2
Đào Tiến Quân, Luận văn thạc sĩ, đề tài: “Bảo hộ sáng chế cho dược phẩm theo quy định của Hiệp định TRIPS”
3
Xem thêm khoản 2, Điều 60 Luật sỡ hữu trí tuệ 2005
- Khả năng áp dụng công nghiệp của sáng chế là dược phẩm. Tức là sáng
chế đó có thể sử dụng để thực hiện được việc chế tạo, sản xuất hàng loạt sản phẩm,
hoặc áp dụng lặp đi lặp lại quy trình và thu được kết quả ổn định. Mục đích của
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là bảo vệ các sản phẩm trí tuệ, thúc đẩy sự tiến bộ
chung của loài người, đặc biệt là dược phẩm càng phải đáp ứng tiêu chuẩn này vì
nhu cầu sử dụng thuốc của người bệnh rất cao nên phải đảm bảo một số lượng
thuốc lớn để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của mọi người, đặc biệt là các đại
dịch như: Ebola, SARS, cúm tuýp A/H5N1, cúm tuýp A/H1N1..
Thứ hai, điều kiện về loại trừ
Ngoài việc đáp ứng các điều kiện về tiêu chuẩn bảo hộ là tính mới, trình độ
sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp, thì một giải pháp kĩ thuật trong lĩnh
vực dược phẩm dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình muốn được bảo hộ dưới danh
nghĩa sáng chế thì không được nằm trong các đối tượng loại trừ theo điểm a, b điều
27 Hiệp định TRIPS bao gồm không cấp bằng độc quyền sáng chế trong ba trường
hợp: Thứ nhất, đối với những sáng chế trái ngược với trật tự công cộng hoặc đạo
đức xã hội; bao gồm những sáng chế gây nguy hiểm cho sức khỏe của con người
và động vật hoặc thực vật hoặc để tránh gây nguy hại nghiêm trọng cho môi
trường4. Thứ hai, các thành viên có thể không cấp bằng độc quyền sáng chế cho
các phương pháp chuẩn đoán bệnh, các phương pháp nội và ngoại khoa để chữa
bệnh cho người và động vật5. Thứ ba, các thành viên có thể không cấp bằng độc
quyền sáng chế cho thực vật và động vật, chủ yếu mang tính chất sinh học và
không phải là các quy trình phi sinh học hoặc vi sinh.
Cũng như các đối tượng loại trừ khác theo quy định tại Điều 59 Luật sở hữu
trí tuệ Việt Nam 2005. Ví dụ phương pháp châm cứu, bản thân đây là một phương
pháp chữa bệnh truyền thống của các nước châu Á, rất có hiệu quả và đã được y
4
Xem thêm tại khoản 2 Điều 27 Hiệp định TRIPS
5
Xem thêm khoản 3 (a) Điều 27 Hiệp định TRIPS
học công nhận trong việc chữa các bệnh về xương khớp, bại liệt, vật lý trị liệu để
hồi phục chức năng…. nhưng bản thân phương pháp châm cứu không thể được bảo
hộ dưới danh nghĩa là một sáng chế bởi vì các lý do: Một là, khi áp dụng chữa bênh
cho người bệnh thông thường phải kết hợp với một loại thuốc A, B nào đó tùy
bệnh uống kèm cũng như các phương pháp khác mới có tác dụng, nên phương
pháp này không giải quyết một vấn đề cụ thể nào. Chỉ có loại thuốc A, B (dùng để
chữa trị căn bệnh cụ thể mới được bảo hộ dưới danh nghĩa sáng chế). Hai là,
không đảm bảo tính mới bởi tùy vào tay nghề và khả năng của người châm cứu thì
việc chữa trị mới có hiệu quả, cũng như đây là một phương pháp mà ai cũng biết
và đã có từ lâu nên chưa đảm bảo về tính mới. Ba là, lý do này mang tính nhân đạo
nhều hơn, đó là nếu chúng ta bảo hộ đối với cả phương pháp chữa bệnh thì điều đó
sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng tiêp cận phương pháp chữa bệnh cổ truyền, giá rẻ
đối với người bệnh, đặc biệt là người bệnh ở các nước đang phát triển có nền y học
cổ truyền lâu đời như Việt Nam.