Ý Thức Xã Hội
Ý Thức Xã Hội
Ý Thức Xã Hội
II Ý THỨC XÃ HỘI
- Các giai cấp có điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau,
với những lợi ích khác nhau → YTXH của các giai cấp
mang nội dung và hình thức không giống nhau, đối lập
nhau.
- Tính giai cấp của YTXH thể hiện ở cả TLXH và HTT:
Mỗi giai cấp đều có đời sống tâm lý riêng, với những tình
cảm, tâm trạng, tập quán, truyền thống,… riêng; ủng hộ
hay không ủng hộ đối với các giai cấp khác.
HTT đối lập nhau: HTT của giai cấp thống trị ra sức bảo
vệ lợi ích, địa vị của họ; HTT của giai cấp bị trị thể hiện
lợi ích, khát vọng giải phóng của quần chúng lao động,
chống lại giai cấp thống trị, XH người bóc lột người, xây
dựng một XH dân chủ, công bằng, văn minh.
II. QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TTXH VÀ YTXH
- Đời sống tinh thần của XH hình thành, phát triển trên cơ
sở của đời sống vật chất.
- TTXH là nguồn gốc của YTXH, quyết định YTXH, quy
định khuynh hướng vận động và phát triển của xã hội.
- Khi TTXH, nhất là PTSX biến đổi thì những tư tưởng và
lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền,
triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật,… sớm muộn sẽ
biến đổi theo
→ Những quan niệm, tư tưởng khác nhau là do những điều
kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.
II. QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TTXH VÀ YTXH
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
- Ý thức chính trị đáp ứng nhu cầu nhận thức và giải quyết
những vấn đề quan trọng của XH; trong đó, việc giành
quyền lực, thực hiện quyền lực nhà nước trở thành vấn đề
trung tâm của ý thức chính trị.
- Ý thức chính trị là sự phản ánh các quan hệ xã hội, trước
hết là quan hệ về kinh tế và chính trị giữa các giai cấp, các
đảng phái, dân tộc, quốc gia và thái độ của chúng đối với
quyền lực nhà nước.
- Việc thể hiện trực tiếp, tập trung nhất lợi ích giai cấp là
đặc trưng quan trọng của ý thức chính trị.
III. CÁC HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI
Hệ tư tưởng chính trị phản ánh trực tiếp, tập trung nhất
cơ sở kinh tế: Hệ tư tưởng chính trị tiến bộ, cách mạng thúc
đẩy cơ sở kinh tế phát triển phù hợp với yêu cầu phát triển
của LLSX và quy luật khách quan của XH. Hệ tư tưởng lạc
hậu, phản động là công cụ bảo vệ chế độ kinh tế lỗi thời.
3 kiểu cơ bản của ý thức chính trị trong lịch sử:
- Hệ tư tưởng chính trị tư sản giữ vai trò tiến bộ, cách mạng
trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ phong kiến, chống tôn
giáo, tiến hành cải cách dân chủ đời sống XH; biến đổi theo
hướng lạc hậu, phản động, trở thành cơ sở lý luận cho các
cuộc chiến tranh xâm lược của CNĐQ.
III. CÁC HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI
Ý thức chính trị
- Ý thức pháp quyền ra đời gắn với sự ra đời của NN, có vai
trò quan trọng trong việc tổ chức, điều hành, quản lý XH.
- Ý thức pháp quyền là sự tổng hợp những tri thức, quan
điểm của một GC về bản chất, vai trò của pháp luật, về tính
công bằng của những quy tắc được chấp nhận trong XH;
thể hiện bằng luật pháp với những quy định về quyền, nghĩa
vụ của NN, các tổ chức XH, công dân, về tính hợp pháp hay
không hợp pháp của hành vi con người trong XH.
- Ý thức pháp quyền phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế,
thể hiện cụ thể bằng pháp luật NN.
- Trong XH có GC đối kháng, ý thức pháp quyền mang tính
GC. GC nắm chính quyền củng cố địa vị thống trị về kinh
tế, chính trị bằng các luật lệ; sử dụng hệ tư tưởng pháp
quyền bảo vệ hệ thống luật pháp của mình.
III. CÁC HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI
- Hệ tư tưởng pháp quyền tư sản: luật pháp tư sản cần thiết,
hợp lý, là sự thể hiện cao nhất về quyền tự nhiên của con
người; bảo vệ cho chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về
TLSX, chế độ bóc lột và trật tự của chế độ TBCN.
- Hệ tư tưởng pháp quyền và luật pháp XHCN: phản ánh lợi
ích, nguyện vọng của NDLĐ; bảo vệ cơ sở kinh tế và trật tự
của CNXH. CNXH làm thay đổi bản chất GC của pháp luật,
tạo ra những điều kiện hiện thực nâng cao ý thức pháp
quyền, tính tự giác, tích cực của công dân trong việc thực
hiện pháp luật.
III. CÁC HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI
- Bác bỏ quan điểm siêu hình, máy móc về quan hệ giữa tồn
tại xã hội và ý thức xã hội; cung cấp cơ sơ lý luận, phương
pháp khoa học để các khoa học chuyên ngành đi sâu khám
phá những “bí ẩn” của đời sống xã hội.
- Trong thực tiễn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới cần
phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội
và ý thức xã hội, trong đó việc thay đổi tồn tại xã hội cũ là
điều kiện cơ bản để thay đổi ý thức xã hội cũ.
Những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến
những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần; ngược lại,
những tác động của đời sống tinh thần trong những điều
kiện xác định, cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ
trong tồn tại xã hội.