Nothing Special   »   [go: up one dir, main page]

TIỂU LUẬN CHỦ NGHĨA KHOA HỌC XÃ HỘI

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 18

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

…o0o…

BÀI TẬP LỚN


MÔN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Đề tài: Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo từ
đó liên hệ để chứng minh ảnh hưởng của Phật Giáo trong đời sống xã
hội Việt Nam đương đại và sự vận dụng của sinh viên Đỗ Phương
Linh MSV 11223388 Lớp Kinh doanh quốc tế 64B

Họ và tên: Đỗ Phương Linh


Mã sinh viên: 11223388
Giảng viên: Ts. Lê Ngọc Thông
Lớp học phần: LLNL1107(123) _19

Hà Nội – 10/2023
MỤC LỤC
MỤC LỤC...........................................................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................................3
1. Tính cần thiết của đề tài:.........................................................................3
2. Phương pháp nghiên cứu:........................................................................4
NỘI DUNG CHÍNH...........................................................................................5
I. PHẦN LÝ THUYẾT....................................................................................5
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo...............................5
1.1. Bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo................................5
1.1.1 Bản chất của tôn giáo....................................................................5
1.1.2. Nguồn gốc của tôn giáo................................................................6
1.1.3. Tính chất của tôn giáo..................................................................7
1.2. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.........................................................................................8
2. Tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta
hiện nay........................................................................................................10
2.1. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam.........................................................10
2.2. Chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với tín ngưỡng, tôn
giáo hiện nay............................................................................................11
II. PHẦN VẬN DỤNG:.................................................................................13
1. Sự vận dụng lý thuyết để chị ra chỉ ra ảnh hưởng của Phật Giáo
trong đời sống xã hội ở Việt Nam..............................................................13
2. Sự vận dụng của bản thân sinh viên Đỗ Phương Linh.......................14
KẾT LUẬN........................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................19

2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cần thiết của đề tài:
Từ lâu, tôn giáo đã tồn tại, phát triển và trở thành một sự hiện diện
có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội loài người. Các tôn giáo khác
nhau nhìn chung đều hướng con người đến những giá trị chân, thiện, mỹ.
Ở Việt Nam hiện nay, tôn giáo cũng đã khẳng định được vai trò to lớn
của nó trong đời sống tinh thần của nhân dân, tính nhân văn sâu sắc của
tôn giáo có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục mỗi con người. Tuy có sự
khác biệt về mặt tư tưởng giữa những tôn giáo khác nhau, song sự khác
biệt đó không cản trở được các tín đồ tôn giáo giao lưu, cùng nhau chung
sống hòa hợp và đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước. Xuyên
suốt sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng và nhà nước ta luôn coi
trọng tôn giáo và quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng chân chính của nhân
dân. Do tính chất nó, tôn giáo cũng dễ bị những thế lực thù địch lợi dụng
vào mục đích bất chính nhằm chống phá đất nước ta. Vì lẽ đó mà mỗi
công dân phải có tư tưởng vững vàng, thực hiện quyền tự do tôn giáo
theo pháp luật của Đảng và nhà nước. Tôn giáo nói chung và Phật giáo
nói riêng có tác động rất lớn đến suy nghĩ và hành động của người dân
Việt, và đó cũng là lý do sau khi suy nghĩ rất kỹ, em đã lựa chọn đề tài
“Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo từ đó liên hệ
để chỉ ra ảnh hưởng của Phật Giáo trong đời sống xã hội ở Việt Nam hiện
nay và sự vận dụng của sinh viên Đỗ Phương Linh MSV 11223388 Lớp
Kinh doanh quốc tế 64B” để nghiên cứu và làm rõ các khía cạnh của tôn
giáo cũng như tìm hiểu ảnh hưởng của Phật Giáo đến đời sống văn hoá để
có những định hướng vận dụng của riêng mình.
2. Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề tôn giáo, bài
tiểu luận của em là sự phối chặt chẽ giữa phương pháp phân tích và tổng hợp,
khái quát hoá cũng như hệ thống hóa lý thuyết và kinh nghiệm thực tế của cá
nhân người viết.

3
NỘI DUNG CHÍNH
I. PHẦN LÝ THUYẾT
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo
1.1. Bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo
1.1.1 Bản chất của tôn giáo
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra rằng tôn giáo được coi là một hình thái
ý thức xã hội phản ánh hư ảo hiện thực khách quan. Các lực lượng tự nhiên và
xã hội nhờ sự phản ánh đó, mà trở thành siêu nhiên và thần bí. Còn đối với
Ph.Ăngghen, ông nhìn nhận tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư
ảo được khắc sâu vào trí óc của con người của những lực lượng bên ngoài chi
phối cuộc sống hàng ngày của họ. Hay có thể tóm lược lại quan điểm của
Ph.Ăngghen rằng tôn giáo chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần
thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.
Nhìn từ giác độ là một thực thể xã hội, các tôn giáo cụ thể như Công
Giáo, Phật Giáo,... có năm tiêu chí cơ bản như sau:
Thứ nhất, có niềm tin sâu sắc vào đấng siêu nhiên, đấng tối cao, thần linh
để tôn thơ (niềm tin tôn giáo);
Thứ hai, có hệ thống giáo thuyết (giáo lý, giáo luật, lễ nghi) phản ánh thế
giới quan, nhân sinh quan đạo đức, lễ nghi tôn giáo;
Thứ ba, có hệ thống cơ sở thờ tự;
Thứ tư, có tổ chức nhân sự, quản lý điều hành việc đạo (người hoạt động
tôn giáo chuyên nghiệp hay không chuyên nghiệp);
Thứ năm, có hệ thống tín đồ đông đảo, những người tự nguyện tin theo
một tôn giáo nào đó, và được tôn giáo đó thừa nhận
Từ việc nhận thức rõ được bản chất của tôn giáo, chủ nghĩa Mác - Lênin
đã khẳng định tôn giáo là một hiện tượng xã hội - văn hóa sinh ra từ sự sáng tạo
của chính con người. Song vốn là quy luật tất yếu của tự nhiên, điều gì cũng sẽ
có mặt tốt và mặt xấu. Tôn giáo được con người tạo ra để phục vụ mục đích và
lợi ích của họ, nó phản ánh những ước mơ, suy nghĩ và nguyện vọng của họ.
Tuy nhiên, việc con người bị lệ thuộc vào tôn giáo dẫn đến việc tuyệt đối hoá và
phục tùng tôn giáo vô điều kiện cũng là điều không thể tránh khỏi.
Theo như học thuyết Mác – Lê nin, yếu tố quyết định việc ra đời và phát
triển của những loại hình nhận thức khác, trong đó có Phật giáo suy cho đến
cùng vẫn là phương thức sản xuất sức lao động cùng những quan hệ kinh tế. Có
thể suy ra nguồn gốc sản sinh ra tôn mọi quan niệm về tôn giáo, các tổ chức,
thiết chế tôn giáo chính là những hoạt động sản xuất, từ những điều kiện sống
nhất định trong xã hội và thay đổi theo những chuyển biến của cơ sở kinh tế.

4
Từ góc độ thế giới quan, khác với thế giới quan duy vật biện chứng, khoa
học của chủ nghĩa Mác – Lênin, các tôn giáo mang thế giới quan duy tâm. Khác
biệt về thế giới quan là thế, song sự khác biệt đó không làm những người cộng
sản với chủ nghĩa mác xít có thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, trái lại họ luôn có thái độ tích cực và tôn trọng
quyền tự do, tín ngưỡng, lựa chọn theo hoặc không theo tôn giáo của nhân dân.
Xã hội tốt đẹp nơi những người cộng sản và những người có tín ngưỡng tôn
giáo có thể cùng nhau xây dựng là mơ ước của quần chúng tín đồ và được phản
ánh qua một số tôn giáo.
Tín ngưỡng tuy không đồng nhất với tôn giáo nhưng giữa hai khái niệm
có sự giao thoa nhất định. Tín ngưỡng chỉ một hệ thống những niềm tin và sự
ngưỡng mộ cũng như cách thể hiện niềm tin của con người để mong cầu sự giúp
đỡ, chở che từ các sự vật, hiện tượng và lực lượng có tính thần thánh, linh
thiêng. Tín ngưỡng có nhiều loại hình khác nhau phải kể đến: tín ngưỡng Thờ
Mẫu, tín ngưỡng Thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng Thờ anh hùng dân tộc…
Tôn giáo và tín ngưỡng là chỗ dựa tinh thần của nhân dân, ta cần phân
biệt rõ ràng hai khái niệm tốt đẹp này với sự mê tín dị đoan, giữa chúng có một
ranh giới vô cùng rạch ròi, một bên đại diện cho sự tích cực của niềm tin vào
tôn giáo còn một bên là niềm tin ấy đã trở nên thái quá và biến chất.
Mê tín được hiểu là niềm tin mê muội, viển vông, vô căn cứ và mâu
thuẫn với khoa học tự nhiên. Mê tín khiến con người tin vào các mối quan hệ
nhân quả siêu nhiên, thần thánh và hư ảo mà trên thực tế không có mối liên hệ
vật lý cụ thể, rõ ràng nào liên kết các mối quan hệ đó. Dị đoan là những suy
đoán và hành động một cách tuỳ tiện, vô căn cứ, đi ngược lại với những điều
bình thường, chuẩn mực trong cuộc sống.
Tổng kết lại, có thể hiểu mê tín di đoan là niềm tin đến mức mê muội,
cuồng tín của con người vào các lược lượng siêu nhiên phi trần thế, từ đó có
những hành vi mang tính cực đoan, lệch lạc quá mức, đi chệch với các giá trị
văn hoá, đạo đức và pháp luật, làm tổn hại cho cá nhân, xã hội và cả một cộng
đồng.
1.1.2. Nguồn gốc của tôn giáo
Bàn về nguồn gốc, tôn giáo có ba nguồn gốc về tự nhiên, kinh tế - xã hội,
nhận thức và tâm lý.
Thứ nhất, nguồn gốc tự nhiên, kinh tế - xã hội
Giai chưa có sự phát triển về lực lượng sản xuất cũng là lúc xã hội chưa
phân chia giai cấp, con người trong xã hội nguyên thuỷ đang phải chịu sự tác
động và chi phối sâu sắc của môi trường tự nhiên hùng vĩ. Khi ấy, sự bất lực và

5
yếu đuối trước những hiện tượng không thể giải thích được đã khiến họ gán cho
tự nhiên những sức mạnh, quyền lực thần bí.
Giai đoạn xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, xã hội cũng xuất
hiện những áp bức bất công. Con người vẫn chưa được trang bị đầy đủ về mặt
nhận thức để có thể tự mình lý giải căn cơ của sự phân hoá giai cấp và những áp
bức, bất công, tội ác… Nỗi lo sợ sự thống trị của các lực lượng xã hội và khát
khao được giải phóng được con người trông chờ, gửi gắm vào một lực lượng
siêu nhiên ngoài trần thế.
Thứ hai, nguồn gốc nhận thức
Ở một giai đoạn lịch sự nhất định, con người sẽ nhận ra sự nhận thức về
tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình là có giới hạn. Khi mà khoảng cách
giữa “biết” và “chưa biết” vẫn còn tồn tại, tôn giáo xuất hiện để giải thích cho
những điều “không biết”, những điều mà khoa học chưa thể giải thích được. Kể
cả những vấn đề đã được khoa học chứng minh, trình độ dân trí thấp và sự nhận
thức chưa đầy đủ tạo điều kiện để tôn giáo ra đời, tồn tại và phát triển. Như vậy,
xét theo phương diện này tôn giáo bắt nguồn từ sự tuyệt đối hóa, cường điệu
hoá mặt chủ thể của nhận thức con người, từ đó biến cái nội dung khách quan
thành cái siêu nhiên, thần thánh
Thứ ba, nguồn gốc tâm lý
Ở góc độ tâm lý, tôn giáo xuất hiện như một chỗ dựa tinh thần cho con
người. Sự dựa dẫm của con người vào tôn giáo có thể bắt nguồn từ sự yếu đuối
và bất lực trước những hiện tượng tự nhiên, xã hội hay trong những lúc ốm đau
và bệnh tật hoặc tâm lý muốn được bình yên khi làm một việc lớn (ma chay,
cưới xin, làm nhà…) cần được trấn an bản thân. Không chỉ trong lúc bị cảm xúc
tiêu cực bủa vây, ngay cả trong những tình cảm tích cực như tình yêu, sự kính
trọng biết ơn với những người có công với nước với dân, con người cũng tìm
đến tôn giáo. (Phải kể đến thờ thành hoàng làng, thờ các anh hùng dân tộc…).
Có thể nói rằng, con người sáng tạo ra tôn giáo và nương nhờ những khía cạnh
tâm linh siêu nhiên của tôn giáo để an ủi những bất lực và sự thăng hoa trong
cảm xúc, suy nghĩ của họ.
1.1.3. Tính chất của tôn giáo
Thứ nhất, tính lịch sử của tôn giáo
Trải qua quá trình ra đời, tồn tại và phát triển và có sự thay đổi qua từng
thời kỳ lịch sử cụ thể nhằm thích ứng với nhiều điều kiện lịch sử - xã hội, tôn
giáo là một hiện tượng xã hội có tính chất lịch sử. Trong quá trình vận độngcủa
mỗi tôn giáo, vì những yếu tố kinh tế - xã hội, lịch sử tác động nên mỗi tôn giáo
bị phân liệt, chia tách làm nhiều tôn giáo và hệ phái khác nhau.

6
Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng nhận định rằng tôn giáo sẽ đánh mất đi vị trí
của nó trong đời sống xã hội và đời sống tinh thần của mỗi người trong một giai
đoạn lịch sử nào đó, mà ở đó khoa học và giáo dục đã được phổ cập đến hầu
như đại đa số quần chúng nhân dân, giúp họ nhận thức rõ ràng bản chất của các
hiện tượng tự nhiên và xã hội, không cần nương tựa các thế lực siêu nhiên làm
chỗ dựa tinh thần nữa.
Thứ hai, tính quần chúng của tôn giáo
Là một hiện tượng xã hội phổ quát đối với tất các chủng tộc, quốc gia,
khu vực, tôn giáo với tính quần chúng không những được thể hiện qua số tín đồ
cực đông (gần 3/4 dân số toàn cầu); còn được biểu hiện ở chỗ, mỗi tôn giáo là
nơi sinh hoạt văn hóa, tinh thần của một đại bộ phận quần chúng nhân dân. Tôn
giáo hướng con người về lòng tin tưởng hạnh phúc vĩnh hằng, đồng thời thể
hiện ước vọng của nhân dân ta xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, bác
ái. Tôn giáo được nhiều người thuộc các tầng lớp khác nhau trong xã hội (đặc
biệt là tầng lớp lao động) tin tưởng vì tính nhân văn, nhân văn, nhân ái của nó.
Thứ ba, tính chính trị của tôn giáo
Thời kỳ xã hội chưa có sự phân chia giai cấp, tôn giáo chỉ phản ảnh
những nhận thức ngây thơ của con người về bản thân và thế giới xung quanh
nên tôn giáo hoàn toàn chưa có tính chính trị. Chỉ khi nào có sự chia rẽ, khác
biệt xã hội và sự đối lập giữa lợi ích giai cấp thì bản chất chính trị của tôn giáo
mới lộ rõ. Nó là sản phẩm của điều kiện kinh tế - xã hội và phản ánh lợi ích,
nguyện vọng của các giai cấp khác nhau về đấu tranh giai cấp chính trị, giải
phóng dân tộc và tôn giáo. Tuy nhiên, khi các giai cấp bóc lột, thống trị lợi dụng
tôn giáo để phục vụ lợi ích giai cấp của mình và chống lại giai cấp công nhân và
tiến bộ xã hội thì tôn giáo mang tính chất tiêu cực, phản chính trị.
Con người cần nhận thức rõ việc quần chúng nhân dân nương nhờ tôn
giáo làm chỗ dựa tinh thần, song thực tế đã cho thấy tôn giáo đã và đang bị các
thế lực chính trị - xã hội lợi dụng thực hiện mục đích ngoài tôn giáo của họ.
1.2. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
Tôn giáo vẫn đánh dấu sự hiện diện của mình trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, tuy nhiên đã có sự biến đổi trên nhiều mặt. Khi giải quyết vấn
đề tôn giáo phải đảm bảo những nguyên tắc sau:
- Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, không tín ngưỡng của
nhân dân
Tôn giáo và tín ngưỡng là hai khái niệm khác nhau thuộc lĩnh vực ý thức
tư tưởng, thể hiện niềm tin sâu sắc của quần chúng vào đấng tối cao, đấng

7
thiêng liêng nào đó mà họ tôn thờ. Vì thế, nhân dân có quyền tự do tư tưởng (tự
do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng) và không một cá nhân, tổ chức nào
kể cả các chức sắc tôn giáo, tổ chức giáo hội… được quyền can thiệp vào sự lựa
chọn theo đạo, đổi đạo, hay không theo đạo của nhân dân. Bản chất ưu việt của
chế độ xã hội chủ được thể hiện qua sự tôn trọng quyền con người mà tôn trọng
tự do tín ngưỡng là một phần trong đó. Các tôn giáo và hoạt động tôn giáo bình
thường, chân chính được Nhà nước xã hội chủ nghĩa tôn trọng và bảo hộ, không
can thiệp đồng thời không cho bất kỳ ai xâm phạm đến quyền tự do tín ngưỡng
và tôn giáo của nhân dân.
- Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải kết hợp với
quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
Chủ nghĩa Mác-Lênin tuân thủ nguyên tắc mục tiêu chính của nó là giải
quyết những tác động tiêu cực của tôn giáo đối với quần chúng mà không can
thiệp vào công việc nội bộ của bất kỳ tổ chức tôn giáo nào. Hệ tư tưởng nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc thay đổi chính tồn tại xã hội trước khi nỗ lực thay
đổi ý thức xã hội, xóa bỏ nguồn gốc ảo tưởng trong tư duy con người trước khi
tìm cách loại bỏ chúng. Trước mắt, điều quan trọng là phải xây dựng một xã hội
không bị áp bức, bất công, nghèo đói, mù chữ và các tệ nạn xã hội khác. Tuy
nhiên, việc đạt được mục tiêu này là một quá trình lâu dài và phức tạp và không
thể hoàn thành nếu không xem xét lại các cấu trúc xã hội hiện có và xây dựng
một cấu trúc xã hội mới ngay từ đầu.
- Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng của tôn giáo trong quá trình
giải quyết vấn đề tôn giáo
Từ khi xã hội xuất hiện giai cấp, hai mặt chính trị và tư tưởng thường
xuyên được biểu hiện và tác động qua lại với nhau trong vấn đề tôn giáo và bản
thân mỗi tôn giáo. Dưới góc độ chính trị, khía cạnh này thể hiện mối quan hệ
giữa tiến bộ và phản tiến bộ, sự đối đầu về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai
cấp và sự xung đột giữa các thế lực lợi dụng tôn giáo. Đạo Công giáo phản đối
các mục đích cách mạng vì lợi ích của nhân dân lao động. mọi người. Về mặt tư
tưởng, tôn giáo thể hiện sự khác biệt về tín ngưỡng, trình độ tín ngưỡng giữa
người có niềm tin tôn giáo và người không tin tôn giáo với những người có tín
ngưỡng, tôn giáo khác nhau và đối lập nhau, không mang tính đối kháng.
Thực chất của việc phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng chính là phân
biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân tôn
giáo và vấn đề tôn giáo. Sự đan xen giữa vấn đề chính trị và tư tưởng ít nhiều
làm phức tạp hoá sự phân biệt này. Sự chi phối sâu sắc tôn giáo của các yếu tố
chính trị làm sự nhận biết vấn đề chính trị hay tư tưởng thuần tuý trở nên khó

8
khăn. Tuy nhiên, cần phải phân biệt rạch ròi hai mặt này nhằm tránh khuynh
hướng cực đoan trong quá trình giải quyết những vấn đề liên quan đến tín
ngưỡng, tôn giáo.
- Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo
Tôn giáo không bất biến, trái lại nó là một hiện tượng xã hội luôn luôn
vận động và biến đổi không ngừng phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội và
điều kiện lịch sử cụ thể, mà trong mỗi thời kỳ đó vai trò và sự tác động của tôn
giáo đều không giống nhau. Do nhận thức, thái độ của các tu sĩ, linh mục và
giáo dân đối với các vấn đề của cuộc sống xã hội không đồng đều, tôn giáo cần
phải xét trên lịch sử cụ thể, nhìn nhận và ứng xử với các sự kiện có liên quan về
tôn giáo của mỗi tôn giáo cụ thể.
2. Tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện
nay
2.1. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
Ở Việt Nam, tôn giáo có năm đặc điểm chính như sau:
Thứ nhất, Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo
Hiện nay, nhà nước ta đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 43 tổ
chức tôn giáo thuộc 16 tôn giáo với khoảng 27 triệu tín đồ chiếm 27% dân số cả
nước. Các tổ chức tôn giáo tồn tại với nhiều hình thức khác nhau. Có tôn giáo
du nhập từ bên ngoài, với các điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, như Phật giáo,
Công Giáo, Tin lành, Hồi giáo, có tôn giáo ngoại lai, như Cao Đài, Hoà Hảo.
Thứ hai, đa dạng, đan xen, chung sống hòa bình và không có xung đột
hay chiến tranh tôn giáo
Chính vì Việt Nam là nơi giao lưu của nhiều luồng văn hoá thế giới nên
các tôn giáo ở Việt Nam có sự đa dạng về nguồn gốc và truyền thống lịch sử.
Mỗi tôn giáo dù không có chung quá trình lịch sử tồn tại và phát triển, nhưng
các tín đồ của các tôn giáo khác nhau cùng chung sống hoà bình trên một địa
bàn dựa trên sự tôn trọng và xung đột chưa từng xảy ra giữa các tôn giáo. Thực
tế cho thấy, bất kỳ tôn giáo nào muốn du nhập vào Việt Nam cũng mang dấu ấn
và chịu ảnh hưởng từ bản sắc văn hoá Việt Nam.
Thứ ba, phần lớn tín đồ tôn giáo là nhân dân lao động, có lòng yêu nước,
tinh thần dân tộc
Các tôn giáo Việt Nam có thành phần tín đồ rất đa dạng và chiếm phần
lớn là người lao động… Đa số các tín đồ tôn giáo đều mang trong mình tinh
thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm, tôn trọng công lý, gắn bó với dân tộc, đi
theo Đảng, theo cách mạng, hăng hái chung tay vào sự nghiệp dựng xây và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam. Sự đoàn kết của tín đồ các tôn giáo và tầng lớp nhân dân

9
đã làm nên những thắng lợi to lớn và vẻ vang trong lịch sử dân tộc, thể hiện ước
vọng sống tích cực “tốt đời, đẹp đạo.”
Thứ tư, hàng ngũ chức sắc các tôn giáo có vai trò, vị trí quan trọng trong
giáo hội, có uy tín, ảnh hưởng với tín đồ
Chức sắc tôn giáo được hiểu là tín đồ có chức sắc, phẩm vị trong tôn
giáo, họ tự thực hành những lối sống riêng biệt theo giáo lý, giáo luật của tôn
giáo mà mình tin theo. Xét theo khía cạnh tôn giáo, họ có nhiệm vụ tuyên
truyền, thực hiện giáo lý, giáo luật, nghi lễ, quản lý tổ chức của tôn giáo, giữ
gìn, củng cố, phát huy tôn giáo, chuyên chăm sóc đến đời sống tinh thần của các
tín đồ.
Nhìn chung, xu hướng tiến bộ trong đội ngũ chức sắc tiếp tục phát triển
mặc dù thường xuyên có sự biến động của tình hình chính trị - xã hội trong và
ngoài nước.
Thứ năm, các tôn giáo ở Việt Nam đều có quan hệ với các tổ chức, cá
nhân tôn giáo ở nước ngoài
Việc Nhà nước Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc
gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới trong giai đoạn hiện nay chính là điều
kiện gián tiếp để nâng cao cũng như mở rộng mối quan hệ giữa các tôn giáo
trong nước và quốc tế. Cả các tôn giáo ngoại nhập và các tôn giáo nội sinh đều
có quan hệ với các tổ chức, các nhân tôn giáo bên ngoài phạm vi lãnh thổ quốc
gia hoặc các tổ chức tôn giáo quốc tế. Chính vì thế, ta phải đảm bảo kết hợp
giữa mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế với việc đảm bảo độc lập, chủ quyền
trong giải quyết các vấn đề tôn giáo ở Việt Nam, tránh để tôn giáo bị kẻ địch lợi
dụng nhằm chống phá can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta để thực hiện
âm mưu “diễn biến hoà bình”.
2.2. Chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với tín ngưỡng, tôn giáo
hiện nay
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam bao gồm năm nội
dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, tôn giáo và tín ngưỡng tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây
dựng xã hội chủ nghĩa và trở thành chỗ dựa tinh thần của một bộ phận người
dân.
Đảng ta đã có sự khẳng định mang tính khoa học và cách mạng về sự tồn
tại lâu dài cùng dân tộc của tôn giáo và tín ngưỡng trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Khẳng định này hoàn toàn khác với quan điểm chủ quan, cánh tả
cho rằng tín ngưỡng, tôn giáo có thể bị mất đi bởi các biện pháp hành chính,
hoặc khi trình độ hiểu biết cao và đời sống vật chất được đảm bảo. Hay tư duy

10
cánh hữu duy tâm coi tôn giáo và tín ngưỡng là những hiện tượng bất biến, độc
lập, tách biệt khỏi mọi nền tảng kinh tế xã hội và hệ thống chính trị.
Vì vậy, các chính sách tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, quyền
tuyên xưng hoặc không tuyên xưng bất kỳ tín ngưỡng, tôn giáo nào, quyền
tuyên xưng tín ngưỡng, tôn giáo bình thường theo quy định của pháp luật phải
nhất quán. Trong khuôn khổ pháp luật, tôn giáo tồn tại và hoạt động với nguyên
tắc cơ bản là mọi cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật.
Thứ hai, Chính sách đại đoàn kết dân tộc phải được Đảng và Nhà nước ta
nhất quán thực hiện.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo
và đồng bào không theo tôn tôn giáo vô cùng quan trọng. Nhà nước xã hội chủ
nghĩa không cho phép bất kỳ hành vi chia rẽ, phân biệt đối xử tín ngưỡng, tôn
giáo với công dân, đồng thời đưa ra những chủ trương góp phần tăng cường sự
đoàn kết vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh”.
Bằng cách khuyến khích quần chúng tham gia lao động sản xuất, hoạt động xã
hội thực tiễn, sự phát triển về cả tinh thần và tri thức của họ có thể được nâng
cao thông qua quá trình này. Mội công dân đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng,
bảo vệ tổ quốc, không phân biệt tín ngưỡng hay tôn giáo.
Giữ gìn và tiếp tục bảo vệ các giá trị tốt đẹp của tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên, vinh danh những cá nhân có công lao với Đất nước và nhân dân, không lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo vào hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động vi phạm luật
pháp và chính sách của Nhà nước, gây chia rẽ nhân dân, chia rẽ các tôn giáo,
dân tộc, phá hoại an ninh trật tự
Thứ ba, vận động đông đảo quần chúng nhân dân là then chốt của công
tác tôn giáo
Công tác vận động đồng bào các tôn giáo thông qua việc chấp hành
nghiêm những chính sách kinh tế - xã hội, quân sự, an ninh, bảo vệ quyền lợi
vật chất và tinh thần của người dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo
nhằm mục tiêu vận động đồng bào nâng cao tinh thần yêu nước, ý chí độc lập và
phát triển Tổ quốc.
Đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa vùng đồng bào theo các tôn
giáo, nhằm nâng cao trình độ, đời sống mọi mặt cho đồng bào, giáo dục nhận
thức đầy đủ, đúng đắn cho nhân dân về đường lối, chính sách, pháp luật, trong
đó có chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Thứ tư, cả hệ thống chính trị mang trọng trách hoàn phải thành tốt công
tác tôn giáo.

11
Công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội
trong đó có các chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng, Nhà nước, đến quần
chúng tín đồ, chức sắc các tôn giáo, đồng thời cũng thể tách rời khỏi công tác
đấu tranh chống lại âm mưu, hoạt động tôn giáo gây tổn hại lợi ích Tổ quốc và
dân tộc. Vì thế, toàn bộ hệ thống chính trị, từ hệ thống tổ chức đảng, chính
quyền, mặt trận Tổ quốc đến đoàn thể chính trị do Đảng lãnh đạo phải có trách
nhiệm làm tốt công tác tôn giáo. Cần có những biện pháp hợp lý góp phần củng
cố và kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn
giáo các cấp.
Thứ năm, Vấn đề theo đạo và truyền đạo
Nhà nước Việt Nam thừa nhận và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo
hoạt động tuân theo pháp luật và được đặt dưới sự bảo hộ của luật pháp. Tuy
mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự nhưng
những hoạt động trên đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, nghiêm cấm
thực hiện hành vi lợi dụng tôn giáo vào mục đích bất chính vi phạm pháp luật
như tuyên truyền tà đạo trái phép, hoạt động mê tín dị đoan và ép buộc người
dân theo đạo.
II. PHẦN VẬN DỤNG:
1. Sự vận dụng lý thuyết để liên hệ tác động của Phật giáo đến đời sống xã
hội của nhân dân Việt Nam
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, Đạo Phật bén rễ, đâm chồi và phát
triển rộng mở khắp chiều dài lịch sử dân tộc cho đến tận ngày hôm nay. Thông
qua cách trực tiếp và gián tiếp, Phật Giáo đã tác động đến việc hình thành quan
niệm sống và sinh hoạt về rất nhiều mặt trong cuộc sống người dân Việt Nam.
Thứ nhất, xét về mặt tư tưởng và đạo lý
Từ lâu, giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Đạo Phật đã thấm
nhuần trong tâm hồn và suy nghĩ của từng người dân Việt Nam. Tư tưởng Phật
giáo và suy nghĩ của người Việt được thể hiện trong một mối quan hệ mật thiết,
gắn kết. Đạo Phật mang đến các tư tưởng từ bi, thương xót, cứu khổ, bình đẳng,
nhân ái phù hợp với phong tục, tập quán của người Việt Nam. Ngoài đạo lý Từ
Bi, người Việt còn chịu sự ảnh hưởng của đạo lý Tứ Ân với động cơ thúc đẩy
khiến cho ta sống hài hoà với xã hội, với thiên nhiên để tiến đến hạnh phúc chân
thực và miên trường. Mặt khác, quan niệm Phật Giáo cũng có những mặt tiêu
cực với cách nhìn nhận cuộc đời đầy bể khổ, khiến con người ta dễ chùn bước
và sống buông trôi qua ngày.
Thứ hai, xét trong quá trình hội nhập văn hoá

12
Với tính chất của một bất định pháp, Phật pháp chuyển biến theo hoàn
cảnh và căn cơ của chúng sanh với sự mệnh cứu khổ cho những số vật lầm than.
Tinh thần của Phật giáo đã vượt qua những cách ngăn của địa lý, thời gian và
không gian, vượt qua biên giới của một quốc gia để hội nhập với thế giới, mang
hơi thở tốt đẹp và những giáo lý chân chính tốt đẹp kết nối người người người
với nhau. Không chỉ ở văn hoá phương Đông mà ở phương Tây cũng ít nhiều có
sự hiện diện của Phật Giáo.
Thứ ba, xét theo góc độ nhân văn và xã hội
Ở góc độ này, Phật Giáo có ảnh hưởng vô cùng sâu sắc thông qua ngôn
ngữ, ca dao thơ ca, các tác phẩm văn học và cả những phong tục tập quán. Có lẽ
đây là mảnh đất tương đối màu mỡ cho sự bén rễ, sinh trưởng và phát triển của
Phật Giáo. Nhiều từ ngữ xuất phát từ Phật Giáo được nhiều người dùng đến kể
cả những người ít học, nhiều từ như từ bi, giác ngộ… đã được người Việt quen
dùng như ngôn ngữ mẹ đẻ. Sự ảnh hưởng của phật giáo không ngừng ở phạm vi
ngôn ngữ mà còn ăn sâu vào ca dao, dân ca, để lại dấu ấn sâu đậm trên diễn đàn
tư tưởng Việt Nam và xuất hiện trong nhiều phong tục tập quán như thờ cúng,
ăn chay, phóng sanh…
Thứ tư, xét qua các loại hình nghệ thuật
Ảnh hưởng của phật giáo không chỉ hiện diện trong phương diện nghệ
thuật sân khấu với các loại hình cải lương, hát bội, kịch nói và hát chèo, mang
cái tính triết lý “nhân quả báo ứng”, “ác giả ác báo” làm cốt lõi trong các vở
diễn, bài ca tuồng phù hợp với đạo lý của người phương Đông và nếp sống dân
tộc truyền thống. Ngay cả trong phương diện nghệ thuật tạo hình, từ kiến trúc,
hội hoạ đến điêu khắc cũng phảng phất hơi thở của Phật giáo. Đạo phật trở
thành cảm hứng vô biên cho người nghệ sĩ trong các sáng tác của mình. Cái tinh
hoa độc đáo của Phật Giáo cũng được tỏa sáng trong các kiến trúc chùa chiền,
mô hình kiến trúc theo kiểu chữ “công”, các cốt tượng, phù điêu trong điêu khắc
và những bức tranh của các hoạ sĩ Việt Nam phải kể đến tác phẩm “Lễ Chùa”
của Nguyễn Siêu, hay “Quan Âm Thị Hiện” của Phượng Hồng.
2. Sự vận dụng của bản thân sinh viên Đỗ Phương Linh
Em tên là Đỗ Phương Linh, em sinh ra và lớn lên tại mảnh đất Nam Định
vốn có bề dày lịch sử và truyền thống hiếu học. Hiện tại em là sinh viên năm hai
và đang tiếp tục sự nghiệp đèn sách của mình dưới mái trường Đại học Kinh tế
Quốc dân. Trong quá trình học tập trên giảng đường đại học, được tiếp xúc, tìm
hiểu và nghiên cứu bộ môn chủ nghĩa xã hội khoa học nói chung và vấn đề tôn
giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng dưới sự dẫn dắt của
giảng viên hướng dẫn là tiến sĩ Lê Ngọc Thông, bản thân em đã tiếp thu được

13
nhiều kiến thức và có những thay đổi sâu sắc trong nhận thức về giá trị, tầm
quan trọng và ý nghĩa của tôn giáo để có những định hướng vận dụng của riêng
mình như sau:
Thứ nhất, tôn trọng, giữ gìn sự đoàn kết và nâng cao sự giao lưu văn hoá
giữa các tín đồ của các tôn giáo khác nhau.
Bản thân em nhận thức rõ Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, bao gồm
cả những tôn giáo nội sinh như Hoà Hảo, Cao Đài… và những tôn giáo ngoại
sinh như Công Giáo, Phật Giáo, Tin Lành… Những tín đồ của các tôn giáo khác
nhau cùng chung sống và dựng xây tổ quốc Việt Nam ngày càng vững mạnh.
Sống ở một quốc gia có sự giao thoa giữa rất nhiều những nền văn hoá khác
nhau, ít nhiều em có sự tiếp xúc và ảnh hưởng bởi sự hiện diện của tôn giáo
trong cuộc sống thường nhật. Từ thành phố Nam Định nhỏ bé đến khi đặt chân
lên thủ đô Hà Nội đông đúc và tấp nập, mở rộng vòng tròn kết nối với mọi
người xung quanh trong đó có cả những bạn đến từ các tỉnh thành khác, quốc
gia khác như Lào hay Campuchia, thông qua trò chuyện và làm việc chung
khiến em có nhiều cơ hội hiểu thêm về các tôn giáo khác nhau cũng như nhiều
tín ngưỡng ở nhiều vùng miền. Đây là một cơ hội vô cùng tốt để em có thêm
hiểu biết về những khía cạnh tốt đẹp của các tôn giáo khác nhau, đồng thời có
những góc nhìn khác về vấn đề này. Trên cơ sở nhận thức được những nét đẹp
đó, bản thân em luôn mong muốn được kết nối với con người hơn, cũng như kết
nối nhiều con người với nhau hơn, từ đó gia tăng sự giao lưu, hiểu biết cũng để
các tín đồ tôn giáo bỏ qua những sự khác biệt trong suy nghĩ, tránh những tác
động tâm lý tiêu cực như kỳ thị, chỉ trích hay ghét bỏ bất cứ tôn giáo chân chính
nào để cùng chung sống hòa hợp và tạo nên một tập thể đoàn kết.
Thứ hai, coi tôn giáo như một nơi an dưỡng tâm hồn, không lạm dụng và
sa đà vào mê tín dị đoan
Không có hành trình nào mà thiếu đi những hiểm nguy và trắc trở, không
có thực tại nào mà thiếu đi những khó khăn. Trong một số giai đoạn của cuộc
đời, con người ta sẽ dễ dàng cảm thấy yếu đuối và bất lực trước những chông
gai mà ta gặp phải. Chính vì vậy mà đôi khi ta cần nương nhờ những thế lực phi
trần thế để an ủi bản thân và giải thích cho những gì ta không thể hiểu được,
không chỉ trong những lúc buồn, đau, khổ bệnh mà cả những lúc cảm xúc đang
thăng hoa. Bản thân em trước những bước chuyển lớn của cuộc đời, như kỳ thi
chuyển cấp, kỳ thi học sinh giỏi hay gần đây nhất là kỳ thi THPTQG 2022 đều
có những lo lắng và bất định khó bộc bệch thành lời. Đây cũng là một trong
những lý do em tìm đến với niềm tin tâm linh của Phật Giáo, và cầu nguyện
được che chở và giúp đỡ để vượt qua nỗi sợ to lớn của bản thân. Song, em cũng

14
nhận được thức được thế lực tâm linh và tôn giáo chỉ là một liều thuốc để an ủi
tâm hồn, muốn đạt được thành công em phải tự mình đứng lên và cố gắng nỗ
lực từng ngày. C.Mác đã khẳng định con người là chủ thể sáng tạo ra tôn giáo
chứ không phải tôn giáo nhào nặn ra con người, em phải thật tỉnh táo và khéo
léo để vạch ra những ranh giới rõ ràng của niềm tin tôn giáo và mê tín dị đoan,
tránh biến “liều thuốc an thần” thành “liều thuốc phiện” không thể dứt ra một
khi đã sa đà vào.
Hình thành và đi theo những định hướng vận dụng tôn giáo đã nêu ở trên,
bản thân em thực sự đã gặt hái nhiều thành quả tốt đẹp. Thành công đầu tiên của
em là thành công về mặt nhận thức. Mỗi con người chúng ta tiếp xúc, mỗi địa
điểm chúng ta đi, mỗi kiến thức mà chúng ta thu nạp đều khơi mở cho ta những
góc nhìn mới về nhiều vấn đề. Sự mở rộng hơn về kho tàng tri thức trong quá
trình tìm hiểu bộ môn chủ nghĩa xã hội khoa học nói chung và vấn đề nói riêng
song song với việc tiếp xúc với nhiều tôn giáo khác nhau đã hình thành cho em
cái nhìn bao quát hơn về tôn giáo và tín ngưỡng trong cuộc sống, về sự khác
biệt nhưng không dị biệt của mỗi nền văn hoá cũng như những mặt tích cực của
những niềm tin tâm linh chân chính. Càng biết nhiều hơn, em càng thấy vấn đề
tôn giáo thực sự rất thú vị, có nhiều góc nhìn cần khai thác và khơi dậy mong
muốn được khám phá nhiều hơn về đề tài này trong em. Thành công tiếp theo
của em là thành công trong việc kết nối và phát triển các mối quan hệ của bản
thân. Nhờ tinh thần tôn trọng và thái độ tích cực trong việc giao lưu văn hoá và
tiếp xúc với nhiều con người ở những tôn giáo khác nhau, em đã kết giao được
với nhiều người đồng thời lắng nghe được những chia sẻ của họ về niềm tin tôn
giáo và những tín ngưỡng trong văn hoá của họ. Thành công thứ ba của em là
thành công trong việc phân biệt ranh giới giữa niềm tin vào các thế lực tâm linh
và sự mê tín dị đoan, nhận ra rằng niềm tin tâm linh chỉ là một điều kiện cần để
có thể đạt được thành công, phải có thêm năng lực và sự cầu tiến của bản thân
mới đủ để ta vững bước với lựa chọn của mình, trành biến liều thuốc chữa lành
tâm hồn đang yếu đuối đó thành thứ thuốc phiện đã dùng thì không dứt ra được.
Chính nhờ đó, em đã thành công vượt qua các kỳ thi quan trọng và ghi danh
trong bảng vàng của trường Đại học Kinh tế Quốc dân với số điểm vượt qua cả
mong đợi - 28.40 điểm.
Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn đọng mà bản thân em cần phải nghiêm
chỉnh khắc phục. Đầu tiên phải kể đến khó khăn trong việc thực sự kết nối con
người với con người. Mối liên hệ giữa con người chỉ thực sự chặt chẽ khi họ có
thể hoà hợp với nhau trên nhiều mặt, đồng thời cũng không phải hầu hết con
người đều có nhu cầu kết nối. Đây có thể là một điều vô cùng khó khăn khi em

15
muốn gắn kết mọi người với nhau để họ có thể tự tin chia sẻ và bộc bạch những
nhiều khía cạnh khác về cuộc sống, trong đó bao gồm vấn đề tôn giáo và tín
ngưỡng. Điều em chưa thực hiện được hoặc đã thực hiện được nhưng chưa triệt
để phải kể đến vấn đề mê tín. Tuy có đã có sự phân biệt rõ ràng, nhưng tâm lý
không vững vàng nhiều khi cùng là một nguyên nhân chính dẫn đến việc em dễ
dàng tin vào những điều vô căn cứ, không đúng với cơ sở khoa học, đi xem
những dự báo trước về tương lai và nhờ những trò may rủi để quyết định lựa
chọn của mình. Đôi lúc em đã bỏ qua việc học và tự trấn an bản thân bằng niềm
tin tâm linh để rồi có kết quả học tập không như ý muốn.
Trong tương lai, em sẽ cần cố gắng hơn nữa để phát huy những thành
công mình hiện đang có, giữ vững lập trường về tín ngưỡng và tôn giáo, niềm
tin tâm linh gắn với sự cố gắng không ngừng nghỉ của chính bản thân mình để
vượt qua những thử thách mà cuộc sống mang lại. Đồng thời với phát huy
những thành công, những điểm tồn đọng em nhận thấy cũng cần được khắc
phục. Em nghĩ rằng một tâm lý vững chắc, sự tự tin làm chủ được bản thân
trong các tình huống giao tiếp kết nối cũng như lý trí mạnh mẽ để không ỷ lại
dựa dẫm vào các thể lực tâm linh sẽ là cách tôn nhất để khắc phục những mặt
xấu còn tồn tại. Với tâm thể của một sinh viên trong thời đại toàn cầu hoá, hiện
đại hoá, em nghĩ rằng sự tự chủ sẽ là chìa khóa cho mọi thành công cũng như là
giải pháp cho mọi vấn đề của bản thân. Em cũng cần tiếp tục sự nghiệp học tập
thật tốt, tham gia các công trình nghiên cứu cũng như giao lưu với bạn bè không
chỉ trong nước và quốc tế như một cách để giao lưu văn hoá, chia sẻ tín ngưỡng
tôn giáo tốt đẹp, để mình hòa nhập với thế giới chứ không hoà tan.

16
KẾT LUẬN
Tôn giáo và tín ngưỡng là một nét đẹp trong đời sống tinh thần của nhân
dân ta. Đảng, Nhà nước và mỗi công dân trên đất nước Việt Nam mang trong
mình trọng trách bảo vệ, giữ gìn và phát triển những nét văn hoá tốt đẹp đã
thấm nhuần trong giáo lý chân chính của các tôn giáo. Song song với đó, vấn đề
nâng cao nhận thức và giữ vững lập trường cũng cần được chú trọng, giúp các
tín đồ tôn giáo không ỷ lại, phụ thuộc vào những thế lực tâm linh phi trần thế để
rồi thái quá lên cuồng tín và mê tín dị đoan.
Qua quá trình nghiên cứu, em được tìm hiểu sâu hơn về Phật Giáo và mở
rộng thêm nhiều góc nhìn mới mẻ về tôn giáo tốt đẹp này. Từ tư tưởng, đạo lý,
nghệ thuật, ca dao dân ca hay các tác phẩm nghệ thuật và trong hội nhập ngày
nay, đều có sự xuất hiện của vấn đề tôn giáo nói chung và Phật Giáo nói riêng.
Từ việc phân tích và khái quát vấn đề trên, bản thân em cũng củng cố thêm
nhiều điều và có những định hướng của riêng mình trên cơ sở lý luận Mác -
Lênin về tôn giáo, qua đó trưởng thành trong tư tưởng để phát huy những điểm
tốt cũng như đẩy lùi những mặt hạn chế.
Dưới sự hướng dẫn của giảng viên là Ts Lê Ngọc Thông, em đã trình bày
quan điểm của mình trong bài tiểu luận này. Mặc dù sẽ vẫn còn nhiều sai sót,
khiếm khuyết do lần đầu tiếp cận với bộ môn nhưng em mong thầy sẽ đóng góp
ý kiến giúp bài tiểu luận của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TS. Hoàng Chí Bảo, Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Hà Nội,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, 2019
2. Thích Nguyên Tạng, “Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống người
Việt”, 2012. [Trực tuyến]. Địa chỉ: https://thuvienhoasen.org/a14322/anh-
huong-phat-giao-trong-doi-song-nguoi-viet. [Truy cập 03/10/2023]
3. Hoàng Thắng, “Khi người trẻ “nương” vào tâm linh: Đừng để bị lừa”,
2019. [Trực tuyến]. Địa chỉ: https://thanhnien.vn/khi-nguoi-tre-nuong-
vao-tam-linh-dung-de-bi-lua-185836766.htm. [Truy cập 04/10/2023]

18

You might also like