Trinh phi
Thanh Thế Tổ Trinh phi 清世祖貞妃 | |||||
---|---|---|---|---|---|
Thuận Trị Đế phi | |||||
Thông tin chung | |||||
Mất | 5 tháng 2, năm 1661 Tử Cấm Thành, Bắc Kinh | ||||
An táng | Hiếu Đông lăng (孝東陵), Thanh Đông lăng | ||||
Phu quân | Thanh Thế Tổ Thuận Trị Hoàng đế | ||||
| |||||
Tước hiệu | Thứ phi (次妃) Hoàng khảo Trinh phi (皇考贞妃) | ||||
Thân phụ | Ba Độ |
Trinh phi Đổng Ngạc thị (chữ Hán: 貞妃董鄂氏; ? - 5 tháng 2, 1661) là một phi tần của Thanh Thế Tổ Thuận Trị Đế. Bà là em họ của Đổng Ngạc hoàng quý phi, sủng phi nổi tiếng của Thuận Trị. Nhiều sử gia cho rằng vì cớ sự này, bà trở thành phi tần duy nhất tuẫn táng khi Thuận Trị băng hà.
Thân thế
[sửa | sửa mã nguồn]Trinh phi không rõ năm sinh, xuất thân từ dòng tộc Đổng Ngạc thị, hậu duệ Nỗ Khải Ái Tháp (努愷爱塔), thế cư ở thành quốc Đổng Ngạc (nay là huyện Hoàn Nhân tỉnh Liêu Ninh), kỳ tịch là Mãn Châu Chính Bạch kỳ. Tằng tổ phụ là Lỗ Khắc Tố (魯克素), sinh Tịch Hán (席漢) cùng Tịch Nhĩ Thái (席爾泰). Trưởng tử Tịch Hán sinh ra Ngạc Thạc (鄂碩), là thân phụ của Đổng Ngạc hoàng quý phi; còn Tịch Nhĩ Thái sinh ra Ba Độ (巴度), thân phụ của Trinh phi. Đương thời, Ba Độ giữ tước "Nhất đẳng A Đạt Cáp Cáp Phiên" [1]. Xét vai vế gia tộc, bà là đường muội của Hoàng quý phi.
Căn cứ Đổng Ngạc thị tộc sử liệu tập (董鄂氏族史料集), Trinh phi cùng Hoàng quý phi và Ninh Khác phi, một phi tần khác của Thuận Trị Đế xuất thân cùng tộc, là hậu duệ của Nỗ Khải Ái Tháp. Tuy nhiên gia tộc của Ninh Khác phi là ["Tước để thế gia"], sớm liên hôn chặt chẽ với Hoàng thất, trong khi nhánh của Trinh phi và Hoàng quý phi đều là nhánh nhỏ trong đại tộc này.
Đại Thanh tần phi
[sửa | sửa mã nguồn]Tiền trình của Trinh phi không được ghi lại nhiều, trừ cái chết của bà vào ngày 7 tháng 1 (âm lịch) ngay sau khi Thuận Trị Đế băng hà. Về sau, Khang Hi Đế truy phong làm Hoàng khảo Trinh phi (皇考贞妃)[2][3][4].
Trong số các phi tần của Thuận Trị Đế, bà là người duy nhất tuẫn táng. Đây là điểm nhấn lớn nhất mà các sử gia biết về bà, dấy lên nhiều đề tài tranh luận cho hậu thế. Giả thiết lớn nhất cho việc này là vì Trinh phi và Hoàng quý phi Đổng Ngạc thị có quan hệ họ hàng. Đương thời, Hoàng quý phi vô cùng đắc sủng, lại khiến Thuận Trị Đế nảy sinh ý định phế Hậu. Hoàng quý phi mất, Hoàng đế lại truy phong thụy hiệu Hoàng hậu, dù đương kim Hoàng hậu là Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu còn đang tại vị, vốn là điều kiêng kị từ trước đến nay. Vì vậy, Hiếu Trang Hoàng thái hậu căm phẫn, cho rằng mọi bất hạnh đều là do một tay Đổng Ngạc phi gây nên, nhiều ý kiến cho rằng Trinh phi tình nguyện tuẫn táng để bình ổn sự phẫn nộ của Thái hậu, tránh liên lụy gia tộc Đổng Ngạc thị[5]. Tiểu thuyết gia Cao Dương (高陽) trong cuốn "Thanh triều đích Hoàng đế" (清朝的皇帝) cũng dùng một phiên bản của nhận định này, Trinh phi vì muốn bình ổn cơn giận của người nhà Phế hậu Tĩnh phi nên mới tuẫn táng[6].
Ban đầu bà được an táng ở bên ngoài cửa Tây của Phong Thủy tường (風水牆) tại Thanh Đông lăng. Năm Khang Hi thứ 57 (1718), từ táng cùng Hiếu Huệ Chương hoàng hậu tại Hiếu Đông lăng (孝東陵)[7]. Theo bản vẽ vị trí Hiếu Đông lăng, thì vị trí mộ của bà chỉ xếp sau Điệu phi cùng Hiếu Huệ Chương hoàng hậu - chủ nhân tòa lăng. Bởi vì sắc dụ năm Khang Hi thứ 12 (1673), cấm nô bộc tuẫn chủ, mệnh lệnh rõ hủy bỏ hoàn toàn tập tục tuẫn táng, cho nên có thể nói Trinh phi là vị phi tần cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc tuẫn táng theo chồng.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ A Đạt Cáp Cáp Phiên (阿达哈哈番, tiếng Mãn: ᠇ᡩᠠᡥᠠ
ᡥᠠᡶᠠᠨ, chuyển tả: adaha hafan). Năm 1736, được định danh trong Hán ngữ là Khinh xa đô úy - ^ 《清史稿》〈卷二百一十四 列傳一 后妃〉「貞妃,董鄂氏,一等阿達哈哈番巴度女。殉世祖。聖祖追封為皇考貞妃。」
- ^ 《康熙朝實錄》卷一:“康熙谕礼部、皇考(順治)大行皇帝御宇时。妃董鄂氏、赋性温良。恪共内职。当皇考(順治)上宾之日、感恩遇之素深、克尽哀痛、遂尔薨逝芳烈难泯。典礼宜崇。特进名封,以昭淑德,追封为贞妃。所有应行礼仪,尔部察例具奏。”。」
- ^ 《皇朝文献通考》: “妃董鄂氏,轻车都尉巴度女,顺治十八年二月追封皇考贞妃。”
- ^ 揭秘︰中國歷史上最後一位自願殉葬的妃子Lưu trữ 2013-03-18 tại Wayback Machine,來自《大清野史之謎》,金滿樓,北京工業大學出版社。2011年10月1日查閱。
- ^ 《清朝的皇帝》第四章〈世祖〉 Lưu trữ 2018-08-17 tại Wayback Machine,高陽,廣西師範大學出版社。
- ^ 孝東陵 Lưu trữ 2013-02-07 tại Wayback Machine,清東陵官方網頁,2011年10月1日查閱。
- Thanh sử cảo - Hậu phi liệt truyện