Sonny Chiba
Bài viết này là một bản dịch thô từ ngôn ngữ khác. Đây có thể là kết quả của máy tính hoặc của người chưa thông thạo dịch thuật. |
Chiba Shin'ichi | |
---|---|
Sinh | Maeda Sadaho 22 tháng 1, 1939 Fukuoka, Nhật Bản |
Mất | 19 tháng 8, 2021 Kisarazu, Chiba Nhật Bản | (82 tuổi)
Quốc tịch | Nhật Bản |
Nghề nghiệp | Diễn viên, ca sỹ, nhà sản xuất phim, đạo diễn, nghệ sỹ võ thuật |
Năm hoạt động | 1960 – 2021 |
Chiều cao | 1,79m |
Phối ngẫu | Nogiwa Yoko (1972 – 1994) Chiba Tamami(1996 – 2015) |
Con cái | Manase Juri Arata Mackenyu Maeda Gordon |
Website | www |
Chiba Shin'ichi (
Tiểu sử
[sửa | sửa mã nguồn]Ộng có tên khai sinh là Maeda Sadaho (前田 禎穂), sinh ra tại Fukuoka, Nhật Bản, ông là người thứ ba trong số năm người con trong gia đình một phi công thử nghiệm quân sự.[3] Khi lên bốn tuổi, cha ông được chuyển đến Kisarazu, Chiba và gia đình chuyển đến Kimitsu, Chiba.[4]
Sau khi Chiba học trường trung học cơ sở ở Kimitsu, giáo viên thể dục đã khuyên ông nên tập thể dục nghệ thuật.[5] Ông cũng đam mê môn thể thao điền kinh, bóng chày và bóng chuyền.[5] Ông đã tham gia bốn giải vô địch thể thao của tỉnh Chiba.[5] Ở trường trung học, Chiba dành riêng cho mình thể dục dụng cụ nghệ thuật và giành được Liên hoan thể thao quốc gia của Nhật Bản trong khi trong năm thứ ba của mình.[1][6] Ông thích xem phim phương Tây như Shane và High Noon.[6]
Sonny Chiba có niềm đam mê mãnh liệt với võ thuật, ông theo học các bộ môn ninjutsu, shorinji kempo, judo, kendo và goju-ryu karate. Tất cả đều đạt đai đen nhất đẳng trở lên, thậm chí đã tham gia cuộc thi để giành được đai đen đệ tứ đẳng môn karate vào năm 1984. Cách đánh võ của ông nổi tiếng đến mức không ít fan nhận định lối thể hiện của Keanu Reeves trong các bộ phim hành động là mô phỏng từ Sonny Chiba.[7]
Chiba đã đến Đại học Khoa học Thể thao Nippon vào năm 1957.[1][8] Ông là một ứng cử viên nghiêm túc cho một vị trí trong đội tuyển Olympic Nhật Bản ở tuổi thiếu niên của mình cho đến khi ông bị ngồi ngoài bởi một chấn thương lưng.[1][8] Trong khi ông là sinh viên đại học, ông bắt đầu học võ thuật với võ sư Kyokushin Karate nổi tiếng Oyama Masutatsu (người sau này ông đóng vai trong một bộ ba phim), đạt đai đen hạng nhất vào ngày 15 tháng 10 năm 1965, sau đó nhận được một văn bằng thứ tư vào ngày 20 tháng 1 năm 1984.[9]
Năm 1998, ông đóng vai nhân vật phản diện chính Hùng Bá trong bộ phim điện ảnh Phong Vân. Năm 2002, ông lặp lại vai diễn này trong bản phim truyền hình của Đài Loan cùng Triệu Văn Trác và Hà Nhuận Đông. Các bộ phim này đều chuyển thể từ bộ truyện tranh kiếm hiệp cùng tên của họa sĩ Hồng Kông Mã Vinh Thành. Vai diễn của ông được khán giả đánh giá rất tốt, từ ngoại hình tới thần thái đều gần như nguyên tác. Với vai diễn này, ông đã được đề cử giải Kim Tượng cho hạng mục diễn phụ xuất sắc.
Góp mặt trong hàng chục tác phẩm nhưng thực tế Sonny Chiba vẫn chưa thực sự đứng ở hàng ngũ ngôi sao màn ảnh. Cho đến khi bộ phim The Street Fighter (1974) được công chiếu, danh tiếng của Sonny Chiba tăng vọt, trở thành tài tử chuyên vai hành động số 1 ở Nhật Bản. The Street Fighter còn được công chiếu tại Mỹ và để lại ấn tượng với giới làm phim xứ sở cờ hoa. Đây cũng là tác phẩm giúp Sonny Chiba tiến vào Hollywood, trở thành niềm tự hào của showbiz Nhật trong hai thập kỷ tiếp theo.
Không chỉ dừng lại ở vai trò diễn viên, ngôi sao gạo cội còn có tham vọng trở thành nhà sản xuất phim và chỉ đạo võ thuật. Năm 1970, ông lập trường đạo tạo có tên AC (Japan Action Club), mục đích huấn luyện võ và diễn viên đóng thế, nâng cao trình độ võ thuật được sử dụng trong phim ảnh.
Một trong những vai diễn nổi tiếng nhất giai đoạn này của Sonny Chiba là kiếm sĩ Hattori Hanzo của Shadow Warriors. Đây cũng là nhân vật đưa Sonny Chiba trở lại Hollywood, xuất hiện trong series phim kinh điển Kill Bill (2003). Trong cả 2 phần Kill Bill, nhân vật Hattori Hanzo của Sonny Chiba đều đóng vai trò quan trọng trong cốt truyện.
Năm 2006, siêu sao hành động người Nhật được mời đảm nhận vai ông trùm băng đảng yakuza có tên Kamata trong The Fast & The Furious: Tokyo Drift. Bước vào độ tuổi thất tuần, Sonny Chiba vẫn thể hiện được những vai diễn oai phong, quyền lực, như chính vị thế của ông trong showbiz Nhật Bản.
Ngày 18 tháng 9 năm 2021, ông qua đời vì mắc Covid-19, hưởng thọ 82 tuổi.[10]
Con trai ông là Arata Mackenyu cũng là một diễn viên nổi tiếng.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c d “SPORTS CITY”. Kamakura Shobo. 1 (2): 32. 1981.
- ^ “Honke Bruce Lee wo shinogu Chiba Shinichi” [Shinichi Chiba surpasses Bruce Lee as the movie star of martial arts]. Sports Hochi (bằng tiếng Nhật). Tokyo. ngày 27 tháng 12 năm 1974.
- ^ Chibaryū samurai eno michi, pp.81 - 82.
- ^ Chiba Shin'ichi aratame Wachinaga Rindō, pp.38 - 39.
- ^ a b c Chibaryū samurai eno michi, pp.89.
- ^ a b Chibaryū samurai eno michi, pp.95 - 96.
- ^ danviet.vn (21 tháng 8 năm 2021). “Sự nghiệp lẫy lừng và tai tiếng cuối đời của ngôi sao phim "Phong Vân"”. danviet.vn. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2024.
- ^ a b Chiba Shin'ichi aratame Wachinaga Rindō, pp.53.
- ^ “International Karate Organization KYOKUSHINKAIKAN Domestic Black Belt List As of Oct.2000”. Kyokushin karate sōkan: shin seishin shugi eno sōseiki e. Aikēōshuppanjigyōkyoku: 62–64. 2001. ISBN 4-8164-1250-6.
- ^ 日本放送協会 (20 tháng 8 năm 2021). “俳優の千葉真一さん死去 82歳 新型コロナ感染による肺炎|NHK 首都圏のニュース”. NHK NEWS WEB.