Nothing Special   »   [go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Life for Rent

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Life for Rent
Album phòng thu của Dido
Phát hành29 tháng 9 năm 2003 (2003-09-29)
Thu âmThe Ark, The Church, Cubejam và Wessex Studios
Thể loạiPop, trip hop
Thời lượng54:02
Hãng đĩaCheeky, Arista
Sản xuấtDido Armstrong, Rollo Armstrong, Rick Nowels
Thứ tự album của Dido
No Angel
(1999)
Life for Rent
(2003)
Safe Trip Home
(2008)
Đĩa đơn từ Life For Rent
  1. "White Flag"
    Phát hành: 1 tháng 9 năm 2003
  2. "Life for Rent"
    Phát hành: 1 tháng 12 năm 2003
  3. "Don't Leave Home"
    Phát hành: 12 tháng 4 năm 2004
  4. "Sand in My Shoes"
    Phát hành: 13 tháng 9 năm 2004

Life for Rent là album phòng thu thứ hai của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Anh, Dido được phát hành bởi hãng đĩa Arista Records vào ngày 29 tháng 9, 2003. Album được sản xuất bởi Rollo ArmstrongRick Nowels. Quá trình thực hiện album bắt đầu từ hồi giữa năm 2002.[1] Album đến nay được chứng nhận 7 lần đĩa Bạch kim bởi BPI;[2] và bán hơn 12 triệu bản trên toàn thế giới, có tên tại vị trí thứ tư của danh sách những album bán chạy nhất năm 2003. Album cũng đạt vị trí thứ 7 trong Danh sách những album bán chạy nhất thập niên 2000 tại Anh, giúp Dido là nữ nghệ sĩ duy nhất có hai album trong danh sách top 10.

Sáng tác

[sửa | sửa mã nguồn]

Bài hát đầu tiên và cũng là đĩa đơn phát hành đầu tiên của album, "White Flag" bắt đầu bằng một hợp âm đơn, gợi nhớ đến ca khúc "Nothing Compares 2 U" của Sinéad O'Connor.[3] Trong ca khúc, nhân vật chính không chịu đầu hàng, cho dù cả hai đều biết chuyện của họ đã chấm dứt.[4] Ca khúc gồm một tạp âm "đa lớp", với phần outro là tiếng du dương của dương cầm và các nhạc cụ bộ dây khác.[4] Bài hát thứ hai trong album, "Stoned" là một bản nhạc với giai điệu sôi động, gợi nhớ đến David Bowie trong album Outside (1995).[5] Bản nhạc cùng tên album, "Life for Rent" mang đậm chất tự sự với giai điệu tinh tế.[3] Ca khúc bắt đầu bằng tiếng guitar mộc và sau đó có pha trộn giai điệu từ hip hop. Phần "Nothing I have is truly mine" được lặp lại trong hồi cuối của bài.[5] "Mary’s in India" là một ca khúc đầy suy nghĩ như một lời đề nghị nho nhỏ với một người bạn chuyển đi sống ở nước ngoài về những gì cô để lại sau lưng.[5] Bài hát thứ 5, "See You When You're 40" là một bản ballad mang giai điệu và màu sắc tối hơn, với một chút giai điệu giao hưởng và trip-hop.[5] 'And I've seen, tonight, what I'd been warned about / I'm gonna leave, tonight, before I change my mind,' she sings.[5]

Dido có lần chia sẻ về bài hát thứ 6, "Don't Leave Home", là một ca khúc với phần đề cập đến việc nghiện ma tuý. Thay vì là một người tình, ma tuý chiếm lấy thân thể người nghiện cho đến khi anh ta không muốn về nhà nữa. Bài hát "Who Makes You Feel" là một ca khúc trip-pop nhẹ nhàng và đầy tình cảm.[5] "Sand in My Shoes" nói về việc cô quá bận đến nỗi không còn thời gian nữa, với phần nối của bài có hơi hướng nhạc dance-house.[5] "Do You Have a Little Time" có những nhịp điệu hip-hop và những nhạc cụ dây mới mẻ.[3] "This Land í Mine" là một mảnh trầm ngâm mà theo PopMatters, là một bản mà "Travis hay Coldplay sẽ thu nó với một nụ cười nhoẻn trên môi. Với giai điệu giản dị và lơ thơ, ca khúc nghe giống với Olivia Newton-John hồi đầu những năm 70."[5] Bài hát "See The Sun" cho thấy Dido như một vị cứu tinh cho một con tim tan vỡ.[3][5]

Các đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]

"White Flag" là ca khúc được phát hành dưới dạng đĩa đơn đầu tiên từ album. Ca khúc nhận được nhiều phản ứng tích cực từ phía các nhà phê bình âm nhạc và trở thành ca khúc ăn khách rộng trên toàn thế giới, đạt vị trí quán quân tại Úc và khu vực Châu Âu.[6] Bài hát đạt vị trí Á quân tại Anh, đứng sau "Where Is the Love?" của The Black Eyed Peas và trở thành ca khúc đạt vị trí cao nhất của cô tại đó.[7] Ở bảng xếp hạng cuối năm tại Anh, bài hát đạt vị trí thứ 12.[8] Bài hát đạt vị trí thứ 18 tại Billboard Hot 100 và trở thành ca khúc thứ hai đạt đến top 20 của cô tại đó.[9] Ca khúc còn đạt vị trí thứ hai tại Billboard Hot Adult Contemporary Tracks và tồn tại ở đó trong suốt 66 tuần.[9] Ca khúc ghi dấu ấn mối quan hệ của cô với Bob Page. Trong một cuộc phỏng vấn với tờ báo The Sun Anh, Dido chia sẻ "ca khúc là lời xin lỗi đến Page vì làm anh ấy đau khổ. 'Đó là một quyết định lớn khi tôi không cưới anh ấy...'".[10] Video ca nhạc cho bài hát này có sự góp mặt của diễn viên David Boreanaz. Ca khúc lọt vào danh sách "500 Ca khúc xuất sắc nhất từ khi bạn sinh ra" của The Blenders tại vị trí thứ 317.[11] Đĩa đơn thứ hai từ album được chọn là "Life for Rent". Nó đạt top 10 tại AnhIreland.[12][13][14] Video ca nhạc của ca khúc có sự xuất hiện của Dido khi đang hát trong nhiều căn phòng, được Sophie Muller đạo diễn.[15]

"Don't Leave Home" được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ ba của album, đây cũng là sáng tác của cô cùng anh trai của mình. Chủ đề của ca khúc nói về ma tuý, khi ma tuý "hát" đến con nghiện của mình: "When I've been here for just one day / You'll already miss me if I go away / So close the blinds and shut the door / You won't need other friends anymore".[16] Ca khúc đạt đến vị trí thứ 25 tại Anh.[17] Bài hát "Stoned" cũng được phối lại và chỉ được phát hành dưới dạng B-side của đĩa đơn, nhưng ngay sau đó trở thành bản ăn khách tại các hộp đêm và đạt vị trí đầu bảng tại Billboard Hot Dance/Club Songs.[18] "Sand in My Shoes" là đĩa đơn thứ tư và cũng là đĩa đơn cuối cùng trích từ album, trở thành một bài hát ăn khách ở các hộp đêm khi đạt vị trí quán quân trên Billboard Hot Dance Club Play.[18] Nó cũng đạt đến vị trí thứ 29 tại Anh.[19]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]
Đánh giá chuyên môn
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic [20]
BBC(trái chiều) [21]
Blender [22]
Robert Christgau(choice cut) [23]
entertainment.ie [24]
Entertainment Weekly(B) [25]
The Guardian [26]
PopMatters(tích cực) [5]
Rolling Stone [27]
Slant Magazine [3]

Theo các bài đánh giá được tập hợp lại tại Metacritic, album nhận được nhiều ý kiến tích cực, đạt được 69 trên 100 điểm dựa trên 12 bản đánh giá.[28] Jason MacNeil, từ PopMatters cho một bài đánh giá rất tích cực, kết thúc bằng câu: "Album lần này nhìn chung là một sản phẩm nặng ký hơn album trước, trong cả chất lượng lẫn chiều sâu".[5] Alexis Petridis có viết "Thật là một điều tuyệt vời khi ghi nhận album thứ hai của Dido có đủ lực mạnh để cho những người gièm pha cô biến mình trở thành những kẻ hợm hĩnh, những kẻ cho rằng âm nhạc của cô chỉ là sự lột tả của một người bình thường;... Buồn thay, tự thân album này đã chứng tỏ mình thật sự nhiều hơn thế".[26] Nhà phê bình Robert Christgau từ MSN Music cho album một "Biểu tượng chiếc kéo Lựa chọn", khi nói "bài hay nhất từ album cũng không đáng để bạn bỏ thời gian hay tiền bạc để nghe nó",[29] cùng với việc chọn ca khúc "Mary's in India" là "ca khúc hay" duy nhất trong album.[23]

Barry Walters, từ tờ Rolling Stone thẳng thắn chia sẻ "Những sản phẩm như No Angel... không quá táo bạo, nhưng lại có tính chính trực của riêng nó."[27]"Life for Rent không hề mang lại thứ gì quá đột phá từ sản phẩm đầu tay của Dido [No Angel],... tuy cô là mẫu người khiêm tốn và hoà nhã, nhưng những ca khúc của cô hoàn toàn là những gì bắt tai và du dương nhất mà có thể sẽ lẩn quẩn trong tâm trí bạn mãi" là nhận xét của Stephen Thomas Erlewine từ Allmusic.[20] Andrew Lynch, từ entertainment.ie có ghi rằng: "Life For Rent không hoàn toàn là một kiệt tác, nhưng có trong mình sự nhẹ nhàng, khiêm tốn cùng sức quyến rũ kiểu hiền lành giúp cho sản phẩm trước trở thành một sản phẩm ăn khách".[24] Derryck Strachan, từ BBC, có viết "... cô ấy bước giữa sự tín nhiệm và tính đại chúng;... Nhưng, cô không hề vấp phải một sai lầm nào trong album lần này. Về mặt tích cực, có nhiều giai điệu folk-pop hơn trong sản phẩm này, về mặt tiêu cực, cô vẫn chưa tiến lên một cách rõ rệt", đồng thời cũng có nói "Cho dù Dido có góp một phần quan trọng trong nhóm nhạc của anh trai Rollo của cô đi chăng nữa,... nhưng để nói sự thành công của nhóm mang đến danh tiếng cho cô thì thật sai lầm".[21]

Thành công về mặt thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Life for Rent trở thành một trong những album có tốc độ bán chạy nhanh nhất của một nghệ sĩ nữ, khi vượt mốc 5 triệu bản chỉ trong hai tuần phát hành. Album bán được 102.500 bản trong ngày đầu tiên và đạt 400.351 bản ngay trong tuần đầu.[30] Theo IFPI, đây là album bán chạy thứ tư của năm 2003 trên toàn thế giới.[31] Cũng theo BPI, Life for Rent là album bán chạy nhất năm 2003 tại Anh Quốc;[8] và là album thứ 7 bán chạy nhất trong thập niên 2000.[32] Album có 10 tuần đạt vị trí đầu bảng tại UK Albums Chart,[33] và tồn tại trong bảng xếp hạng trong 54 tuần.[34][35][36] Tại Hoa Kỳ, Life for Rent đạt đến vị trí thứ tư. Đến tháng 10 năm 2003, album đã bán hơn 1 triệu rưỡi bản.[36] Tại Úc, album mở đầu tại vị trí đầu bảng tại ARIA, trở thành một trong những album bán chạy nhất năm 2003 và được chứng nhận 6 lần đĩa Bạch kim với lượng đĩa bán ra vượt hơn 420.000 bản.[37] Chuyến lưu diễn "Life for Rent Tour" của cô được phát động trên khắp thế giới năm 2004.[36] Album còn được đề cử cho "Album Anh Quốc xuất sắc nhất" tại giải BRIT Awards 2004 cùng với Gotta Get Thru This của Daniel Bedingfield, Think Tank của BlurMagic and Medicine của The Coral nhưng đều thất bại trước Permission to Land của The Darkness. "White Flag" được vinh danh tại Ivor Novello Award năm 2004 với hạng mục "Bài hát quốc tế ăn khách của năm". Cũng trong năm đó, Life for Rent đem về đề cử cho Giải Grammy đầu tiên của cô trong hạng mục "Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất" cho bài "White Flag"

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
STTNhan đềSáng tácThời lượng
1."White Flag"Dido Armstrong, Rollo Armstrong, Rick Nowels4:01
2."Stoned"D. Armstrong, R. Armstrong, Lester Mendez5:55
3."Life for Rent"D. Armstrong, R. Armstrong3:41
4."Mary's in India"D. Armstrong, R. Armstrong3:41
5."See You When You're 40"D. Armstrong, R. Armstrong, Aubrey Nunn5:20
6."Don't Leave Home"D. Armstrong, R. Armstrong3:46
7."Who Makes You Feel"D. Armstrong, R. Armstrong, Master Pnut4:20
8."Sand in My Shoes"D. Armstrong, R. Nowels4:59
9."Do You Have a Little Time"D. Armstrong, Mark Bates, R. Nowels3:55
10."This Land Is Mine"D. Armstrong, R. Armstrong, R. Nowels3:46
11."See the Sun"D. Armstrong5:05
12."Closer[38]" (bản ẩn danh)D. Armstrong, R. Armstrong, R. Nowels3:29

Những người thực hiện album

[sửa | sửa mã nguồn]

Sản xuất album

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Producers - D. Armstrong, Rollo Armstrong, R. Nowels
  • Programmers - D. Armstrong, Sister Bliss, DJ Pnut, Steve Sidelynk

Xếp hạng và chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Bảng xếp hạng Thứ hạng
cao nhất
Chứng nhận Doanh thu
Argentina Argentinian Albums Chart 3× Bạch kim[39] 120,000+
Úc Australian Albums Chart 1[40] 6× Bạch kim [37] 420,000+
Áo Austrian Albums Chart 2[40] Bạch kim [41] 30,000+
Bỉ Belgium Albums Chart (Flanders) 1[40] 2× Bạch kim [42] 100,000+
Bỉ Belgium Albums Chart (Wallonia) 1[40] 2× Bạch kim [42] 100,000+
Brasil Brazilian Albums Chart Vàng [43] 50,000+
Canada Canadian Albums Chart 2[44][45] 3× Bạch kim [46] 300,000+
Đan Mạch Denmark Albums Chart 1[40] Bạch kim [47] 30,000+
Châu Âu European Top 100 Albums 1[48] 5× Bạch kim [49] 5,000,000+[50]
Phần Lan Finland Albums Chart 3[40] Vàng [51] 10,000+
Pháp French Albums Charts 1[52] 2× Bạch kim [52] 645,000+
Đức German Albums Charts 1[53] 3× Bạch kim [54] 600,000+
Hy Lạp Greeks Albums Charts 5[55] Vàng [55] 10,000+
Hungary Hungarian Albums Chart 7[56] Vàng [57] 15,000+
Ý Italian Albums Chart 2[40] Bạch kim [58] 100,000+
México Mexican Albums Charts 4 Vàng[59] 75,000+
Hà Lan Netherlands Albums Chart 1[40] Bạch kim [60] 80,000+
New Zealand New Zealand Albums Chart 1[40] Bạch kim [61] 60,000+
Na Uy Norwegian Albums Chart 2[40] Bạch kim [62] 80,000+
Ba Lan Polish Albums Chart 1[63] Vàng [64] 35,000+
Nga Russian Albums Chart Bạch kim [65] 20,000+
Thụy Sĩ Swedish Albums Chart 1[40] Bạch kim [66] 60,000+
Thụy Sĩ Swiss Albums Top 100 1[40] 3× Bạch kim [67] 120,000+
Anh UK Albums Chart 1[13] 9× Bạch kim [2] 2,866,350[68]
Hoa Kỳ U.S. Billboard 200 4[44][45] 2× Bạch kim [69] 2,100,000+[70]
Hoa Kỳ U.S. Billboard Top Internet Albums 12[71]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Newcomer Brit Awards Nomination Withdrawn”. Yahoo! Music. ngày 17 tháng 1 năm 2002. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2010.
  2. ^ a b “BPI Certifications Search”. British Phonographic Industry. BPI. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2010.
  3. ^ a b c d e Cinquemani, Sal (ngày 27 tháng 9 năm 2003). “Dido: Life for Rent”. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2010.
  4. ^ a b Jeffries, David. “White Flag - AllMusic”. Allmusic. Rovi Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2012.
  5. ^ a b c d e f g h i j k MacNeil, Jason (ngày 26 tháng 9 năm 2003). “Dido: Life For Rent”. Popmatters.com. PopMatters. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2010.
  6. ^ Paul Sexton (ngày 29 tháng 9 năm 2003). “Black Eyed Peas, Muse Lead U.K. Charts”. Billboard magazine. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2008.
  7. ^ Paul Sexton (ngày 15 tháng 9 năm 2003). “Black Eyed Peas, Darkness Lead U.K. Charts”. Billboard magazine. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2008.
  8. ^ a b “The Official UK Singles Chart 2003” (PDF). The Official UK Charts Company. BMI. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2010.
  9. ^ a b “White Flag”. Nielsen Business Media, Inc. Billboard. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2010.
  10. ^ “Dido Dishes On 'White Flag'. The Sun. Yahoo! Music. ngày 26 tháng 7 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2010.
  11. ^ “The 500 Greatest Songs Since You Were Born: 301 - 350”. Blender. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2010.
  12. ^ “Chart Stats - Dido - Life for Rent (single)”. The Official UK Charts Company. Chart Stats. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2010.
  13. ^ a b Every Hit (tháng 10 năm 2003). “UK Albums Chart”. everyhit.com. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  14. ^ “Dido - Life For Rent - Music Charts”. αCharts.us. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2010.
  15. ^ “Dido Life for Rent (single)”. Discogs. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2010.
  16. ^ Pescheck, David (ngày 16 tháng 8 năm 2004). “Dido Apollo, Manchester”. The Guardian. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2010.
  17. ^ “Chart Stats - Dido - Don't Leave Home”. The Official UK Charts Company. Chart Stats. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2010.
  18. ^ a b “Billboard charts”. Allmusic. 2004. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2008.
  19. ^ “Chart Stats - Dido - Sand In My Shoes”. The Official UK Charts Company. Chart Stats. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2010.
  20. ^ a b Erlewine, Stephen T. “allmusic (((Life For Rent - Overview)))”. Rovi Corporation. Allmusic. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2010.
  21. ^ a b Strachan, Derryck (ngày 20 tháng 6 năm 2003). “BBC - Music - Review of Dido - Life For Rent”. BBC. BBC. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2010.
  22. ^ Lynskey, Dorian (ngày 30 tháng 9 năm 2003). “Life for Rent Review”. Alpha Media Group INC. Blender. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2010.[liên kết hỏng]
  23. ^ a b Christgau, Robert (2003). “CG Dido”. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2010.
  24. ^ a b Lynch, Andrew (ngày 15 tháng 10 năm 2003). “Dido "Life For Rent" Review”. entertainment.ie. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2010.
  25. ^ Farber, Jim (ngày 3 tháng 10 năm 2003). “Life For Rent (2003) Dido”. Entertainment Weekly. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2010.
  26. ^ a b Petridis, Alexis (ngày 26 tháng 9 năm 2003). “Dido "Life For Rent". The Guardian. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2010.
  27. ^ a b Walters, Barry (ngày 24 tháng 9 năm 2003). “Dido: Life For Rent: Music Reviews: Rolling Stone”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2010.
  28. ^ “Life For Rent”. Metacritic. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2009.
  29. ^ “Robert Christgau: CG 90s: Key to Icons”. Christgau, Robert. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2010.
  30. ^ British Hit Singles & Albums (Edition 17), published by Guinness World Records
  31. ^ “Top 50 Global Best Selling Albums for 2003 (physical and digital album formats included)” (PDF). IFPI. IFPI. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2010.
  32. ^ “James Blunt Tops U.K. Decade Chart”. Billboard. Billboard.biz. ngày 28 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2003.
  33. ^ “ALL THE NUMBER 1 ALBUMS”. The Official UK Charts Company. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2009.
  34. ^ “Chart Stats - Dido - Life For Rent”. The Official UK Charts. Chart Stats. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2010.
  35. ^ British Hit Singles & Albums (Edition 18), published by Guinness World Records
  36. ^ a b c “Dido Plans North American Tour”. Billboard. 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2010.
  37. ^ a b Australian Recording Industry Association (2004). “ARIA Charts — Accreditations”. aria.com.au. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  38. ^ “Discography Entry”. Tursa.franken.de. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2012.
  39. ^ Cámara Argentina de Productores de Fonogramas y Videogramas (2003). “Argentinian certification”. capif.org.ar. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  40. ^ a b c d e f g h i j k l “Life For Rent (Album)”. Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010.
  41. ^ International Federation of the Phonographic Industry — Austria (ngày 14 tháng 1 năm 2004). “Austrian certification (search)”. ifpi.at. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  42. ^ a b International Federation of the Phonographic Industry — Belgium (ngày 22 tháng 8 năm 2004). “Belgian certification”. ultratop.be. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  43. ^ Associação Brasileira dos Produtores de Discos (2003). “Brazilian certification (search)”. abpd.org.br. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  44. ^ a b “Billboard charts”. Allmusic. 2003. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  45. ^ a b Billboard (2003–2004). “Life for Rent (Billboard)”. Billboard. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2010.
  46. ^ Canadian Recording Industry Association (ngày 27 tháng 5 năm 2004). “Canadian certification (search)”. cria.ca. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  47. ^ International Federation of the Phonographic Industry — Denmark (Week 24, 2004). “Danish certification”. hitlisterne.dk. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |year= (trợ giúp)
  48. ^ Paul Sexton (ngày 2 tháng 2 năm 2004). “Sample-Heavy Single Scores U.K. No. 1”. Billboard magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  49. ^ International Federation of the Phonographic Industry (2004). “IFPI Platinum Europe Awards”. ifpi.org. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  50. ^ International Federation of the Phonographic Industry. “Criteria”. ifpi.org. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  51. ^ “Musiikkituottajat - Tilastot - Kulta- ja platinalevyt”. Ifpi.fi. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2012.
  52. ^ a b Syndicat National de l'Édition Phonographique (ngày 3 tháng 3 năm 2004). “French certification”. disqueenfrance.com. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  53. ^ “German Albums Chart (Search)”. charts-surfer.de. 2003. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  54. ^ “Gold-/Platin-Datenbank ('Life+for+Rent')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  55. ^ a b “Greek Albums Chart”. IFPI Greece. ngày 4 tháng 2 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2004. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2012.
  56. ^ “MAHASZ (Search)”. mahasz.hu. 2003. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2009.
  57. ^ MAHASZ — Hungary (2003). “MAHASZ”. mahasz.hu. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  58. ^ Federation of the italian music industry (2003). “Italian certification”. fimi.it. |url= trống hay bị thiếu (trợ giúp); |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  59. ^ Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas, A.C. (ngày 11 tháng 11 năm 2003). “Mexican certification”. amprofon.com.mx. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  60. ^ Nederlandse Vereniging van Producenten en Importeurs van beeld-en geluidsdragers (2003). “Dutch certification (search)”. nvpi.nl. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  61. ^ Recording Industry Association of New Zealand (ngày 22 tháng 11 năm 2004). “New Zealand certification (search) Chart #1400 - SUNDAY - ngày 25 tháng 3 năm 2004”. rianz.org.nz. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  62. ^ International Federation of the Phonographic Industry — Norway (2003). “Norwegian certification (search)”. ifpi.no. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  63. ^ “Oficjalna lista sprzedaży:: OLIS - Official Retail Sales Chart”. OLIS. ngày 19 tháng 10 năm 2003. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2012.
  64. ^ “Listy bestsellerów, wyróżnienia:: Związek Producentów Audio-Video”. Zpav.pl. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2012.
  65. ^ National Federation of Phonogram Producers (2003). “Russian certification”. 2m-online.ru. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  66. ^ “www.sverigetopplistan.se - Ĺrslista Album - Ĺr 2003”. Hitlistan.se. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2012.
  67. ^ HitParade (2003). “Swiss certification”. hitparade.ch. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  68. ^ Alan Jones (2011). “Adele still on top but UK album sales fall to 13-year low”. Music Week. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2011.
  69. ^ Recording Industry Association of America (ngày 23 tháng 6 năm 2005). “U.S. certification (search)”. riaa.com. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  70. ^ Jonathan Cohen (ngày 22 tháng 8 năm 2008). “Dido Brings It All 'Home' On New Album”. Billboard magazine. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2008.
  71. ^ “(Dido > Charts & Awards > Billboard Albums)”. Billboard magazine. Allmusic. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2007.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Tiền nhiệm:
The Official Fiction bởi Something for Kate
Album đạt vị trí đầu bảng tại Australian ARIA Albums Chart
6 tháng 10 năm 2003 – 19 tháng 10 năm 2003
Kế nhiệm:
Just as I Am bởi Guy Sebastian
Tiền nhiệm:
Sacred Love bởi Sting
Talkie Walkie bởi Air
Album đạt vị trí đầu bảng tại European Albums Chart
18 tháng 10 năm 2003 – 14 tháng 2 năm 2004 (lần đầu)
21 tháng 2 năm 2004 – 28 tháng 2 năm 2004 (lần thứ hai)
Kế nhiệm:
Talkie Walkie bởi Air
Feels Like Home bởi Norah Jones
Tiền nhiệm:
Absolution bởi Muse
Guilty bởi Blue
Friday's Child bởi Will Young
Friday's Child bởi Will Young
Album đạt vị trí đầu bảng tại Anh
11 tháng 10 năm 2003 – 7 tháng 11 năm 2003 (lần đầu)
22 tháng 1 năm 2003 – 28 tháng 11 năm 2003 (lần hai)
20 tháng 12 năm 2003 – 9 tháng 1 năm 2004 (lần ba)
17 tháng 1 năm 2004 – 30 tháng 1 năm 2004 (lần bốn)
Kế nhiệm:
In Time: The Best of R.E.M. 1988–2003 bởi R.E.M.
Number Ones bởi Michael Jackson
Friday's Child bởi Will Young
Call Off the Search bởi Katie Melua