Nothing Special   »   [go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Leeds United F.C.

Leeds United
Tên đầy đủLeeds United Football Club
Biệt danhThe Whites
Tên ngắn gọnLeeds
Thành lập17 tháng 10 năm 1919; 105 năm trước (1919-10-17)
SânElland Road
Sức chứa37,890[1]
Tọa độ53°46′40″B 1°34′20″T / 53,77778°B 1,57222°T / 53.77778; -1.57222
Chủ sở hữuAser Group Holding (90%)
49ers Enterprises (10%)[2]
Người quản lýAndrea Radrizzani
Huấn luyện viênDaniel Farke
Giải đấuEFL Championship
2022-23Ngoại hạng Anh, thứ 19 trên 20 (xuống hạng)
Trang webTrang web của câu lạc bộ
[[2023-24 Leeds United F.C. season|Mùa giải hiện nay]]

Leeds United Football Club là một câu lạc bộ bóng đá lâu đời ở Leeds, Tây Yorkshire, Anh. Trong quá khứ, Leeds United từng là một câu lạc bộ rất mạnh và giàu thành tích. Đội đã vô địch giải hạng nhất Anh (giải Ngoại hạng hiện nay) năm 1969 và về nhì trong 3 mùa giải sau đó. Tại Cúp FA, Leeds thua Chelsea trong trận đá lại của trận chung kết năm 1970. Mùa giải sau, Leeds giành danh hiệu cao quý này nhưng tiếp tục nhận "trái đắng" trong mùa giải tiếp sau đó khi để đội bóng hạng nhì Sunderland đánh bại trong trận đấu cuối cùng với tỷ số 1-0.

Ở đấu trường châu Âu, Leeds cũng được xem là một "đại gia" với 2 chức vô địch Fairs Cup (bây giờ là Europa League) trong năm 1968 và 1971 và thua Celtic trong trận bán kết năm 1970, cùng với đó là lọt vào trận chung kết cúp C1 năm 1975, trận đấu họ đã để thua trước Bayern Munich. Năm 2001, Leeds đã từng vào đến bán kết Champions League và bị loại bởi Valencia.

Huấn luyện viên Don Revie đã phát triển đội bóng trở thành một thế lực thực sự với việc thu thập nhiều cầu thủ tài năng vào thời điểm đó như Billy Bremner, Jack Charlton hay Norman "Bites Yer Legs" Hunter. Hàng công có sự góp mặt của những chân sút "chết chóc" là Allan Clarke và Mick Jones cùng Peter Lorimer, người được nhớ đến như là cầu thủ có nhiều pha dứt điểm hiểm hóc nhất. Hàng công này hợp cùng hàng tiền vệ với sự góp mặt của Johnny Giles, Eddie Gray và đội trưởng Bremner trở thành một bộ khung tấn công khủng khiếp vào thời điểm đó.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Màu sắc và huy hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong 15 năm đầu tiên của Leeds, bộ quần áo câu lạc bộ được mô phỏng trên áo sơ mi sọc xanh trắng của Huddersfield Town , quần đùi trắng và tất xanh đậm với các vòng màu xanh và trắng trên các vòng quay,  bởi vì chủ tịch của Huddersfield, Hilton Crowther là cố gắng hợp nhất hai câu lạc bộ. Cuối cùng, anh rời Huddersfield để đến tiếp quản tại Leeds.

Năm 1934, Leeds chuyển sang mặc áo hai dây màu xanh và vàng kết hợp quốc huy, quần đùi trắng và tất xanh với áo màu vàng. Bộ quần áo này được mặc lần đầu tiên vào ngày 22 tháng 9 năm 1934. Năm 1950, Leeds chuyển sang mặc áo sơ mi màu vàng với tay áo và cổ áo màu xanh lam, quần đùi màu trắng và tất đen, xanh lam và vàng. Năm 1955, Leeds lại đổi sang áo sơ mi màu xanh hoàng gia với cổ áo bằng vàng, quần đùi màu trắng và tất có vòng màu xanh và vàng, do đó giống với dải thành phố Leeds ban đầu. Năm 1961, Don Revie giới thiệu dải màu trắng trơn trong suốt.

Huy hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Huy hiệu đầu tiên của Leeds United xuất hiện vào năm 1934. Giống như Leeds City trước họ, câu lạc bộ đã sử dụng Quốc huy của Leeds, vẫn còn trên bộ dưới nhiều hình thức cho đến năm 1961. Trong một số mùa giải sau 1961–62, khi dải toàn màu trắng thay thế cho màu xanh và vàng, những chiếc áo thể thao không có huy hiệu nào cả.

Một huy hiệu cú đậu đã được thêm vào dải vào năm 1964. Thiết kế này là một bất ngờ trước sự mê tín của Revie về biểu tượng của các loài chim. Con cú có nguồn gốc từ ba con cú có đặc điểm trên quốc huy của thành phố, lần lượt được lấy từ quốc huy của Ngài John Savile, người thợ làm thịt đầu tiên của Leeds. Con cú thường có màu xanh nước biển, nhưng được tô màu vàng cho trận Chung kết Cúp Liên đoàn bóng đá năm 1968.

Từ năm 1971 đến năm 1973, Leeds sử dụng chữ "LUFC" chạy dọc xuống giữa huy hiệu hiện tại, mặc dù theo kiểu đường chéo chứ không phải theo chiều dọc như hiện nay. Kịch bản đã xuất hiện trở lại trên bộ Asics 'kiểu cổ điển' được sử dụng trong mùa giải 1995–96. Năm 1973 là hiện thân của hình ảnh những năm 1970 với huy hiệu "mặt cười" mang tính biểu tượng, được tạo thành từ các chữ cái L và U bằng cách viết bong bóng. Sự ưa chuộng mánh lới quảng cáo của Revie đi trước thời đại nhiều năm và được thực hiện với ý định rõ ràng là được công chúng bên ngoài West Yorkshire chấp nhận. Năm 1977, huy hiệu mặt cười được xoay 45° và màu vàng và xanh lam được đảo ngược. Mặt cười màu vàng trở lại vào năm sau, nhưng giờ đã được bao bọc trong một vòng tròn bao quanh bởi dòng chữ "LEEDS UNITED AFC".

Trong mùa giải 1978–79, một huy hiệu mới đã xuất hiện tương tự như của mùa giải trước, ngoại trừ dòng chữ "LEEDS UNITED AFC" kèm theo một con công cách điệu (liên quan đến biệt danh của câu lạc bộ, "Những con công") thay vì mặt cười màu vàng.

Năm 1984, một huy hiệu khác đã được giới thiệu kéo dài cho đến năm 1998, làm cho nó tồn tại lâu nhất trong kỷ nguyên hiện đại. Huy hiệu quả bóng và hoa hồng đặc biệt sử dụng màu xanh lam, vàng và trắng truyền thống, đồng thời kết hợp Hoa hồng trắng của York, tên câu lạc bộ và một quả bóng đá (một khối hình mặt cắt ngắn tương tự như Adidas Telstar, nhưng có màu của Leeds) trong phần cốt lõi.

Vào mùa giải 1998–99, logo câu lạc bộ được thay thế bằng thiết kế hình chiếc khiên mang phong cách “Châu Âu” hơn. Tấm chắn vẫn giữ lại hoa hồng trắng, cũng như các màu xanh lam, vàng và trắng, với chữ "LUFC" đọc dọc ở giữa. Năm 1999, huy hiệu đã được sửa đổi một chút trong đó quả bóng đá từ huy hiệu năm 1984 được thêm vào giữa bông hồng trắng.

Vào ngày 20 tháng 2 năm 2019, Leeds United đã tiết lộ một huy hiệu chủ yếu là màu vàng sẽ được đeo trên bộ đồ thi đấu của các cầu thủ trong mùa giải kỷ niệm một trăm năm của câu lạc bộ. Huy hiệu vẫn giữ nguyên thiết kế chiếc khiên hiện có, nhưng thay thế chữ "LUFC" bằng dòng chữ "LEEDS UNITED" ở trên và "100 YEARS" bên dưới chiếc khiên. Trên đỉnh cũng có ghi ngày "1919", năm câu lạc bộ được thành lập, cũng như kỷ niệm một trăm năm "2019".

Nhà tài trợ

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Nhà tài trợ trang phục Nhà tài trợ chính Nhà tài trợ thứ hai Nhà tài trợ tay áo
1972–1973 Umbro không có không có không có
1973–1981 Admiral
1981–1983 Umbro RFW
1983–1984 Systime
1984–1985 WGK
1985–1986 Lion Cabinets
1986–1989 Burton
1989–1991 Topman
1991–1992 Yorkshire Evening Post
1992–1993 Admiral Admiral Sportswear
1993–1996 ASICS Thistle Hotels
1996–2000 Puma Packard Bell
2000–2003 Nike Strongbow
2003–2004 Whyte and Mackay
2004–2005 Diadora Rhodar
2005–2006 Admiral
2006–2007 Bet24 Empire Direct
2007–2008 Red Kite OHS
2008–2011 Macron Netflights
2011–2014 Enterprise Insurance
2014–2015 Help-Link
2015–2016 Kappa không có
2016–2017 32Red Clipper
2017–2019 Southerns
2019–2020 Deliveroo
2020–2021 Adidas SBOTOP không có JD Sports
2021–2025 Boxt

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Quốc nội

[sửa | sửa mã nguồn]

Giải vô địch

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Giải vô địch quốc gia
    • Vô địch (3): 1968–69, 1973–74, 1991–92
    • Á quân (5): 1964–65, 1965–66, 1969–70, 1970–71, 1971–72
  • Giải hạng nhất Anh
    • Vô địch (4): 1923–24, 1963–64, 1989–90, 2019–20
    • Á quân (3): 1927–28, 1931–32, 1955–56
    • Á quân play-off (2): 1986–87, 2005–06
  • Giải hạng nhì Anh
    • Á quân (1): 2009–10
    • Á quân play-off (1): 2007–08

Cầu thủ

[sửa | sửa mã nguồn]

Đội hình chính

[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến ngày 11 tháng 7 năm 2023[3]

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

Số VT Quốc gia Cầu thủ
1 TM Pháp Illan Meslier
2 HV Anh Luke Ayling (đội phó)[4]
3 HV Tây Ban Nha Junior Firpo
6 HV Scotland Liam Cooper (đội trưởng)[5]
7 TV Hoa Kỳ Brenden Aaronson
8 TV Tây Ban Nha Marc Roca
9 Anh Patrick Bamford
10 TV Hà Lan Crysencio Summerville
11 TV Anh Jack Harrison
12 TV Hoa Kỳ Tyler Adams
13 TM Na Uy Kristoffer Klaesson
Số VT Quốc gia Cầu thủ
15 HV Bắc Ireland Stuart Dallas
17 TV Angola Hélder Costa
18 TV Anh Darko Gyabi
19 Tây Ban Nha Rodrigo
20 TV Wales Daniel James
21 TV Hà Lan Pascal Strijk
23 TV Colombia Luis Sinisterra
24 Pháp Georginio Rutter
25 HV Đan Mạch Rasmus Kristensen
26 TV Anh Lewis Bate
29 Ý Wilfried Gnonto
30 Anh Joe Gelhardt
33 HV Na Uy Leo Hjelde
35 HV Anh Charlie Cresswell
37 TV Anh Cody Drameh
39 HV Áo Maximilian Wöber
42 TV Anh Sam Greenwood
46 TV Anh Jamie Shackleton
47 TV Anh Jack Jenkins
63 TV Anh Archie Gray
TV Anh Ian Poveda

Cho mượn

[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

Số VT Quốc gia Cầu thủ
5 HV Đức Robin Koch (tại Eintracht Frankfurt đến hết mùa giải)
7 TV Hoa Kỳ Brenden Aaronson (tại Union Berlin đến hết mùa giải)
14 HV Tây Ban Nha Diego Llorente (tại Roma đến hết mùa giải)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Leeds United”. The Football League. ngày 19 tháng 8 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2014.
  2. ^ “San Francisco 49ers Enterprises Become Minority Investor”. Leeds United Football Club. ngày 24 tháng 5 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2018.
  3. ^ “First Team”. Leeds United F.C. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2023.
  4. ^ “Players pay special visit to Leeds Children's Hospital”. Leeds United F.C. ngày 23 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2023.
  5. ^ “Team News: Four changes made for Chelsea clash”. Leeds United F.C. ngày 11 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2023.