Nothing Special   »   [go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Let Go (album của Avril Lavigne)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Let Go
Album phòng thu của Avril Lavigne
Phát hành4 tháng 6 năm 2002 (2002-06-04)
Thu âmTháng 5 năm 2001 – Tháng 3 năm 2002
Phòng thu
  • Big Baby Recording (New York, NY)
  • Blue Iron Gate Studio (Santa Monica, CA)
  • Boulevard Recording Studios (New Milford, NJ)
  • Decoy Studios (Valley Village, CA)
  • Jsm Studios (New York, NY)
  • Real Music Studios (Los Angeles, CA)
  • Signet Sound Delux Studios (Hollywood, CA)
  • Top Floor Studios (New York, NY)
Thể loại
Thời lượng48:37
Hãng đĩaArista
Sản xuất
Thứ tự album của Avril Lavigne
B-Sides
(2001)
Let Go
(2002)
Avril Lavigne: My World
(2003)
Bìa khác
Bìa bản kỷ niệm 20 năm
Bìa bản kỷ niệm 20 năm
Đĩa đơn từ Let Go
  1. "Complicated"
    Phát hành: 11 tháng 3 năm 2002
  2. "Sk8er Boi"
    Phát hành: 9 tháng 9 năm 2002
  3. "I'm with You"
    Phát hành: 18 tháng 11 năm 2002
  4. "Losing Grip"
    Phát hành: 24 tháng 3 năm 2003
  5. "Mobile"
    Phát hành: 8 tháng 5 năm 2003
  6. "Nobody's Fool"
    Phát hành: 18 tháng 1 năm 2005

Let Go là album phòng thu đầu tay của ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Canada Avril Lavigne. Album do Arista Records phát hành vào ngày 4 tháng 6 năm 2002. Trong một năm sau bản hợp đồng thu âm với Arista, Lavigne chật vật do mâu thuẫn trong định hướng âm nhạc. Cô chuyển về Los Angeles để thu những chất liệu đầu cho album, song âm thanh của nhạc phẩm không làm hãng đĩa vừa ý. Cô hợp tác cùng đội ngũ sản xuất The Matrix, và chính họ là những người hiểu tầm nhìn album của cô. Các nhà phê bình xem Let Go là album thuộc thể loại alternative rock với âm thanh mang hơi hướng pop punkpost-grunge.

Album được ghi nhận là tác phẩm nhạc pop đầu tay ăn khách nhất năm 2002 và giành được tới 7 đĩa Bạch kim của Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm (RIAA) ở Hoa Kỳ. Nhạc phẩm đã nhận được số đông những đánh giá tích cực, song phần sáng tác Lavigne vẫn bị một bộ phận giới phê bình phê phán. Album tiêu thụ cực kỳ tốt tại Canada, lấy được chứng nhận kim cương của Music Canada, cũng như đoạt nhiều đĩa bạch kim ở những quốc gia khắp thế giới, kể cả Liên hiệp Anh – nơi cô trở thành nữ nghệ sĩ đơn ca trẻ nhất sở hữu album quán quân ở đất nước này.

Let Go đã tiêu thụ hơn 16 triệu bản toàn thế giới, trở thành album bán chạy nhất của Lavigne tính đến nay và là album bán chạy nhất của một nghệ sĩ Canada trong thế kỷ 21. Theo Billboard, đây là album bán chạy thứ 21 của thập niên. Một cuộc bầu chọn của độc giả Rolling Stone vinh danh Let Go là album hay thứ tư ở thập niên 2000. Album được xem là nhạc phẩm góp phần làm thay đổi thị trường nhạc pop punk, giúp xây dựng vị trí của thể loại trong thị trường đại chúng và góp phần làm gia tăng các ban nhạc pop punk có thành viên nữ hát chính và nhạc pop chịu ảnh hưởng từ punk của giới nữ nghệ sĩ. Ngày 18 tháng 3 năm 2013, Let Go được tái phát hành với bộ đĩa kép cùng album thứ hai Under My Skin của Lavigne – chúng được phát hành qua RCA Records. Album còn được Try to Shut Me Up Tour hỗ trợ quảng bá từ tháng 12 năm 2002 đến tháng 6 năm 2003.

Hoàn cảnh ra đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 11 năm 2000,[1] Ken Krongard (đại diện bộ phận tìm kiếm và quản lý nghệ sĩ – A&R) đã mời Antonio "L.A." Reid (giám đốc hãng Arista Records lúc ấy) tới phòng thu đặt ở Manhattan của nhà sản xuất Peter Zizzo để nghe Lavigne hát. Màn thử giọng kéo dài 15 phút của Lavigne làm Reid "quá đỗi ấn tượng"[2] đến mức anh ngay lập tức ký hợp đồng để cô về dưới trướng Arista với thỏa thuận làm hai album trị giá 1,9 triệu đô la Mỹ (USD)[A] cùng điều khoản thêm 1,4 triệu USD cho phí tạm ứng trước.[3] Vào lúc này, Lavigne thấy rằng cô hòa nhập tự nhiên với nhóm trượt ván ở trường trung học tại quê nhà – hình ảnh ấy được truyền tải qua album đầu tiên của cô, dẫu vậy dù cô thích trượt ván, song chốn học đường lại làm cô bất an. Nhờ có được hợp đồng thu âm, cô bỏ học để tập trung vào sự nghiệp âm nhạc,[1] song vẫn chưa thông báo cho cha mẹ về quyết định của mình. "Tôi không định từ chối [hợp đồng thu âm]. Đó là giấc mơ của cả đời tôi. Họ biết tôi muốn nó nhiều đến mức nào và việc tôi đầu tư vào nó nhiều ra sao."[4][5]

Lavigne chuyển về Los Angeles để cộng tác với nhạc sĩ sáng tác và nhà sản xuất Clif Magness, và anh trao cho cô toàn quyền sáng tạo trong khâu sáng tác. Lavigne và Magness cùng chắp bút "Losing Grip" và "Unwanted" – những bài hát mà cô xem là phản ánh tầm nhìn về toàn bộ album của cô.[6] Tuy nhiên, Arista không ưng những bài hát quá nặng phần guitar mà Lavigne đang sáng tác, làm hãng đĩa phải đi tìm những nhà sản xuất khác để đáp ứng nhu cầu của họ.[7]

Hai năm sau ngày ký hợp đồng, Lavigne (lúc ấy còn vô danh) đã thu hút sự chú ý của đội sản xuất gồm ba người tên là The Matrix. Arista không thể tìm được hướng đi đúng đắn cho Lavigne, vì thế quản lý của đội này, ông Sandy Roberton đã đề xuất cho họ làm việc cùng nhau: "Sao các anh không cho cô ấy làm việc cùng The Matrix trong vài ngày nhỉ?"[8] Theo thành viên Lauren Christy, họ từng nghe những bài hát đầu tiên của Lavigne và thấy chúng chứa "cái chất của Faith Hill". Ngay khi thấy Lavigne bước chân vào phòng thu, The Matrix thấy định hướng âm nhạc của Lavigne không ăn khớp với hình ảnh và dáng dấp của cô.[8] Sau khi trò chuyện với Lavigne trong một giờ đồng hồ, "chúng tôi hiểu là cô ấy không hạnh phúc, song không biết mình muốn đi về đâu."[8] The Matrix thể hiện các bài hát của cô bằng ảnh hưởng của Faith Hill, vì chúng là kiểu bài hát mà hãng đĩa muốn Lavigne hát. Song Lavigne từ chối khi nói muốn những bài hát mang hơi hướng punk rock.[9] Lavigne trình bày cho The Matrix nghe một bài hát mà cô từng thu âm và cực kỳ yêu thích – một bài với âm thanh gợi đến ban nhạc rock System of a Down. May thay, trước khi lập The Matrix, những dự án đầu của các thành viên đều theo hướng pop-rock, vì thế bộ ba dễ dàng nhận ra Lavigne muốn thu âm gì và biết chính xác việc cần làm với cô. Họ bảo cô hãy trở lại vào ngày hôm sau. Trong khi đó, bộ ba đã cùng nhau sáng tác một bài hát – về sau dựng thành "Complicated" – và một bài nữa có tên "Falling Down" (xuất hiện trong album nhạc phim Sweet Home Alabama). Họ thể hiện những bài này cho Lavigne khi cô trở lại vào ngày hôm sau; những bài hát này sau cùng đã giúp cho cô hình dung rõ hơn về con đường mà mình nên chọn.[8]

Khi Josh Sarubin (giám đốc bộ phận A&R và là người ký hợp đồng với Lavigne) nghe "Complicated", ông biết là bài đó hợp với cô. Lavigne trình bày bài hát cho Reid và nhận được cái gật đầu của anh về định hướng âm nhạc mà Lavigne và The Matrix đang theo đuổi, rồi anh chọn "Complicated" làm đĩa đơn chủ đạo của album.[8] Reid đưa Lavigne về chỗ The Matrix để họ cùng làm việc, ban đầu dự kiến kéo dài trong một tháng.[7][9] Arista trao cho nhóm quyền tùy ý sáng tác và sản xuất mười bài hát (làm họ mất tới hai tháng thực hiện).[8] Album lúc đầu định được đặt tựa là Anything but Ordinary dựa theo bài nhạc cùng tên mà The Matrix sản xuất, nhưng Lavigne đề nghị Reid đổi tựa album thành Let Go[6] – tựa đề một bài nháp chưa phát hành xuất hiện trong sản phẩm B-Sides (2001) của Lavigne.

Bìa album được chụp tại Manhattan, thành phố New York ở giao lộ giữa BroadwayPhố Canal.[10] Năm 2022, Lavigne ghé thăm lại nơi này và tái dựng bức ảnh bìa trong một video ngắn nhân kỷ niệm 20 năm ra mắt album.[10][11]

Sáng tác và thu âm

[sửa | sửa mã nguồn]

Lavigne đã cùng The Matrix thu các bài nhạc tại Decoy Studios, một phòng thu đặt tại khu ngoại ô tại Los Angeles còn có tên gọi khác là Valley Village.[7] Cô cũng làm việc với nhà sản xuất kiêm nhạc sĩ Curt FrascaPeter Zizzo – chủ phòng thu ở Manhattan mà Lavigne check-in trước khi lấy được hợp dồng thu âm Arista, và đó cũng là nơi Lavigne thu một số bài nữa.[12][9] Thành viên Scott Spock của The Matrix là kỹ sư thu âm chính của dự án, còn Tom Lord-Alge nhận nhiệm vụ trộn âm các bài.[7] Lavigne đã thu âm hết trên nền "các bản khí nhạc mà đa số đã hoàn thiện". Spocks tiết lộ Lavigne thường thu từng bài trong năm hoặc sáu lần, "và có thể 90% thành phẩm cuối cùng đến từ những lần thu đầu tiên hoặc thứ hai." The Matrix cũng góp giọng cho phần hát bè.[7]

Do được giới thiệu là ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác, việc Lavigne tham gia đã làm nảy sinh những vấn đề nghiêm trọng. Lavigne ẩn ý rằng cô là tác giả chính của album. Trong bài viết được xuất bản trên tạp chí Rolling Stone, Lavigne cho biết khi cộng tác với The Matrix, từng thành viên ở trong phòng thu khi họ viết nhạc, song không hề viết phần guitar, lời hay giai điệu. Theo Lavigne, cô và Christy cùng sáng tác toàn bộ phần lời. Graham là người nghĩ ra một vài đoạn guitar, "và tôi sẽ đáp kiểu 'Yeah, tôi thích đó,' hoặc 'Không, tôi không thích đó.' Chẳng bài hát nào là không phải của tôi cả."[6]

The Matrix – đội ngũ sản xuất sáu bài hát cho Lavigne, mà năm bài xuất hiện trong album[7] – từng lên tiếng giải thích về cách thức họ hợp tác. Theo họ, nhóm sáng tác chủ yếu ở ba đĩa đơn: "Complicated", "Sk8er Boi" và "I'm with You" – ba bài này được xây dựng nhờ sử dụng đàn guitar và dương cầm. Christy chia sẻ: "Avril sẽ đến và hát chút giai điệu, thay đổi ca từ chỗ này hay chỗ kia."[6] Reid bình luận về vấn đề ghi công: "Nếu tôi đang tìm đĩa đơn cho một nghệ sĩ, tôi chẳng quan tâm là ai sáng tác nó. Avril có quyền tự do làm những gì cô ấy thật sự thoải mái, và những bài hát thể hiện góc nhìn của cô. ... Avril luôn tự tin về những ý tưởng của mình."[6]

Dẫu cần những bài hát pop để "tạo sức đột phá" khi bước vào ngành, Lavigne thấy "Complicated" không phản ánh bản thân và kĩ năng sáng tác của cô. Tuy nhiên, cô rất biết ơn bài hát vì nó đã thành công làm bệ phóng cho sự nghiệp của cô. Cô yêu thích bài "Losing Grip" hơn, vì "nó có ý nghĩa hơn rất nhiều khi xuất phát trực tiếp từ chính người nghệ sĩ".[6]

Phát hành và quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]
Lavigne trong buổi hòa nhạc quảng bá album

Album được phát hành vào ngày 4 tháng 6 năm 2002 tại thị trường Canada và Hoa Kỳ. Sau đó, vào ngày 22 tháng 7, Let Go có mặt trên kệ bán đĩa toàn thế giới, và vào ngày 26 tháng 8 ở một vài vùng của châu Âu, tính cả Liên hiệp Anh và Ireland. Một bản album của DataPlay được phát hành vào tháng 9 năm 2002. Trước đó, Arista đã chốt được thỏa thuận với DataPlay vào nam 2002 và đưa vào Let Go cùng các album của ca sĩ nhạc rock Santana và ca sĩ Whitney Houston.[13][14]

Mặc dù Lavigne nhắm tới đối tượng khán giả thiếu niên – chiến lược tiếp thị được xem là bệ phóng thành công cho sự nghiệp của cô;[6][15] Lavigne lại trình bày nhạc trên các chương trình nghĩ lễ tập hợp nhiều nghệ sĩ do đài phát thanh tài trợ khắp Hoa Kỳ[16] – chiếc lược tiếp thị làm tăng doanh số của album trong mùa. Cô khởi động chuyến lưu diễn chính đầu tiên mang tên Try to Shut Me Up Tour – diễn ra vào ngày 23 tháng 1 năm 2003, và khép lại vào ngày 4 tháng 6 năm 2003. Lavigne đi tour cùng ban nhạc – tay trống Matthew Brann, tay bass Mark Spicoluk, và các tay guitar Jesse Colburn và Evan Taubenfeld – và cô đã cùng họ lập nhóm sau khi ký hợp đồng.[12] Trong các đêm trình diễn, cô đưa vào toàn bộ các bài của Let Go, các bài hát B-sides cùng với bản cover bài "Knockin' on Heaven's Door" của Bob Dylan và "Basket Case" của Green Day.[17]

Lavigne đã ghi hình tiết mục của cô trong đêm diễn tại Buffalo, New York vào ngày 18 tháng 5 năm 2003 – ngày cuối của chuyến lưu diễn ở Bắc Mỹ mà cô đã đi trình diễn trong suốt năm tuần. Đĩa DVD ghi lại chuyến lưu diễn lấy tựa đề My World được phát hành vào ngày 4 tháng 11 năm 2003, do Arista Records và 20th Century Fox Home Entertainment hợp tác phát hành. Đĩa DVD ghi lại buổi nhạc, thước phim đằng sau hậu trường, năm video âm nhạc (MV) và đĩa CD audio gồm 6 bài tặng kèm (đưa vào cả bài "Why" chưa từng được phát hành).[18]

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]

"Complicated" (do Arista phát hành làm đĩa đơn chủ đạo của album) được xem là màn chào sân tới nhóm khán giả thuộc mọi lứa tuổi của Lavigne.[9] Tuy nhiên, dẫu có thể tạo ra sức hấp dẫn nhân khẩu học đa dạng, video âm nhạc của đĩa đơn lại có cảnh Lavigne và ban nhạc của cô đi gây rối tại một trung tâm thương mại: "kiểu hình ảnh có thể làm người lớn nghĩ 'Dọn dẹp mớ đó đi!' hơn là chạy ra mua đĩa nhạc."[15] Bài hát chiếm ngôi bảng xếp hạng ở nhiều nước và giành được hai đề cử giải Grammy cho Bài hát của nămTrình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất.

Đĩa đơn thứ hai "Sk8er Boi" thì nhắm tới đối tượng thiếu nhi thiên về pop punk.[9] Bản phát hành của "Sk8er Boi" đã tạo ra bất đồng giữa nhiều đạo diễn chương trình phát thanh. Tuy nhiên, ấn tượng của họ đã đảo chiều khi thính giả giúp họ thay đổi; những lần đầu phát đĩa đơn đã gặt hái thành công, cho thấy sức phổ biến với thính giả sau đại học lẫn thanh thiếu niên. Bài hát đã giành ngôi quán trên bảng xếp hạng mainstream của Hoa Kỳ.[15]

"I'm with You" được phát hành vào cuối tháng 11 năm 2002, gần với dịp Giáng Sinh để nhắc nhở phụ huynh về album, rằng nếu không tự mua album thì hãy mua nó cho bất kì đứa trẻ nào trong gia đình họ.[9][15] Bài hát trở thành một nhạc phẩm thành công nữa của Lavigne khi giành hạng 4 trên Billboard Hot 100, quán quân trên đài phát thanh mainstream và top 10 tại thị trường Canada-Liên hiệp Anh. Bài hát không được phát hành chính thức ở Úc song vẫn được phát thanh lẫn phát hình ở đây. Tính đến nay, Let Go là album duy nhất của Lavigne sở hữu nhiều đĩa đơn lọt top 10 ở Hoa Kỳ. Ca khúc cũng giành được hai đề cử Grammy ở cùng hạng mục như "Complicated". Khâu sắp xếp lịch phát hành các đĩa đơn trong album, khi "I'm with You" là đĩa đơn thứ ba, được xem là "gây tranh cãi", vì "một số người cho rằng 'I'm with You' là cú hích tiềm năng lớn nhất trong album", và bài hát có thể xây dựng Lavigne thành nghệ sĩ trưởng thành hơn nếu được phát hành đầu tiên.[15] Theo Reid, "Một vài người thật sự không hiểu chuyện. Nếu cho video lên vị trí đầu tiên, có một vài lo ngại rằng có thể vì bài hát quá trẻ trung và vui đùa, nó có thể làm những người yêu nhạc nghiêm túc xa lánh hơn."[15]

"Losing Grip" được phát hành làm đĩa đơn thứ tư trích từ album, "có chức năng làm cầu nối sang album kế tiếp" – mà Lavigne cho biết sẽ nặng chất rock hơn tác phẩm đầu tay của cô.[15] Năm 2004, bài hát giành được đề cử giải Grammy cho Trình diễn giọng rock nữ xuất sắc nhất.[19]

"Mobile" là đĩa đơn thứ năm, được phát hành ở New Zealand vào tháng 5 năm 2003. Sau đó bài hát được dùng trong các bộ phim điện ảnh The Medallion (2003), Wimbledon (2004) và xuất hiện đôi chút trong phim Just Married. Năm 2011, một video âm nhạc (MV) của bài hát bị rò rỉ trên Internet – làm từ những thước phim chính thức chưa bao giờ được hoàn thành.

Bản kỷ niệm 20 năm

[sửa | sửa mã nguồn]

Một phiên bản mới của Let Go (do John Feldmann tái trộn âm) được phát hành vào ngày 3 tháng 6 năm 2022, trùng với dịp phát hành kỷ niệm 20 năm ra mắt album gốc. Album chứa phiên bản khác của mười ba bài gốc, cộng thêm sáu bài tặng kèm.

Một bản thu mới của "Breakaway" có trong đĩa tái phát hành này. Ban đầu Lavigne sáng tác bài hát vào năm 2001, song chuyển bài cho ca sĩ người Mỹ Kelly Clarkson để Clarkson thu âm cho nhạc phim The Princess Diaries 2: Royal Engagement. Bản thu nháp gốc của Lavigne từng bị rò rỉ trực tuyến vào năm 2014.[20][21][22]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]
Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
Metacritic68/100
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[23]
Blender[24]
Entertainment WeeklyB−[25]
Melodic[26]
Pitchfork6,6/10[27]
Q[28]
Robert Christgau(choice cut)[29]
Rolling Stone[30]
Slant Magazine[31]
Stylus MagazineB[32]

Let Go nhận được đa số phản ứng tích cực từ giới phê bình, nhận được số điểm 68/100 trên Metacritic, dựa trên các bài đánh giá thu thập từ chính ấn phẩm.[28] Các nhà phê bình xem Let Go là album thuộc thể loại alternative rock[33] với âm thanh mang hơi hướng pop punkpost-grunge.[34] Nhà phê bình âm nhạc Pat Blashill của Rolling Stone ghi rằng album "chất chứa đủ đầy thêm hàng tá bài thánh ca truyền cảm nữa trong cái cảm giác bất an của Total Request". Blashill khen Lavigne sở hữu "giọng hát tuyệt vời", nói thêm rằng cô sáng tác album cùng "đội ngũ sáng tác bài hit chất lượng".[30] Christina Saraceno của AllMusic lưu ý rằng Lavigne "xử lý khéo léo nhiều phong cách", đồng thời khen cô là "một nhạc sĩ sáng tác bài hát có năng lực và giọng hát năng khiếu". Tuy nhiên, Saraceno nhận xét rằng "ở tuổi của cô, cứ tưởng tượng xem cô vẫn đang đi tìm chỗ đứng của mình, vay mượn từ âm nhạc mà cô nghe lúc trưởng thành".[23] John Perry của tạp chí Blender nhận xét ngắn gọn Let Go là "một tác phẩm guitar-pop đầu tay xuất sắc".[24] Bài đánh giá trên tạp chí Q khen ngợi Lavigne đã thể hiện "phong cách âm nhạc vượt xa tuổi của cô ấy".[28] Kaj Roth của ấn phẩm Melodic thấy Lavigne "hát thật đáng yêu và một vài bài hát giống kiểu của Alanis Morissette".[26] Đánh giá của Jon Caramanica từ tạp chí Entertainment Weekly (chấm album điểm B−) thì ghi: "Tác phẩm đầu tay guitar rock một màu và thiếu sáng tạo của Lavigne chỉ được vớt vát nhờ sự thiết tha trong những bài hát của cô."[25]

Một vài cây viết đánh giá có nhận định tương tự về chất lượng ca từ ở một số bài hát trong album. Saraceno cho rằng Lavigne "vẫn phải trưởng thành đôi chút để sáng tác phần lời", khẳng định "Sk8er Boi" chỉ ra "nhược điểm về mặt ca từ" và gọi cách diễn đạt của cô trong "Too Much to Ask" là "lúng túng và đôi khi là ngớ ngẩn".[23] Perry lưu ý phần lời của "Sk8er Boi" là "ngờ nghệch một cách dễ thương".[24]

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Album đã mang về cho Lavigne nhiều giải thưởng âm nhạc từ các tổ chức khắp thế giới. Thành công trong biểu diễn thương mại của album đã giúp Lavigne được ghi danh là Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất tại giải Video âm nhạc của MTV 2002[35] cũng như đoạt giải Âm nhạc Thế giới cho Ca sĩ Canada bán đĩa chạy nhất. Cô cũng thắng ba giải – gồm Nghệ sĩ nữ yêu thích, Nghệ sĩ đột phá và Giải Phong cách – nhiều hơn bất kỳ nghệ sĩ trình diễn nào tại giải MTV châu Á 2003.[36] Cô nhận năm đề cử cho album tại giải Grammy 2003, tính cả Nghệ sĩ mới xuất sắc nhấtAlbum giọng pop xuất sắc nhất. Các đĩa đơn "Complicated" và "I'm with You" của album nhận được đề cử Bài hát của năm lần lượt vào các năm 2003 và 2004, nâng tổng số đề cử của album lên con số tám.[37][38] Lavigne còn được đề cử ở sáu hạng mục tại giải Juno 2003 – được tổ chức ở Ottawa – và thắng bốn giải, tính cả Album xuất sắc nhất và Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất.[39]

Giải thưởng cho Let Go
Năm Tổ chức Giải thưởng Kết quả C.thích.
2002
Giải thưởng Âm nhạc Radio Disney Album xuất sắc nhất Đoạt giải [40]
2003
Giải Grammy Album giọng pop xuất sắc nhất Đề cử [41]
Giải thưởng Âm nhạc Hong Kong Top Sales Top mười album ngoại ngữ bán chạy nhất Đoạt giải [42]
Giải thường Âm nhạc Hungary Album modern rock ngoại ngữ của năm Đề cử [43]
Giải Japan Gold Disc Album rock & pop của năm Đoạt giải [44]
Giải Juno Album của năm Đoạt giải [45]
Album pop của năm Đoạt giải
Giải Video âm nhạc của MTV Nhật Bản Album của năm Đề cử [46]
Premios Oye! Đĩa nhạc tiếng Anh chính Đoạt giải [47]
Giải Teen Choice Âm nhạc chọn lọc: Album Đề cử [48]

Biểu diễn thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Let Go đã gặt hái thành công về mặt thương mại tại Hoa Kỳ, được tạp chí Entertainment Weekly tán dương là một trong những tác phẩm pop đầu tay ăn khách nhất năm 2002.[15] Theo Billboard, tính đến 2022, Let Go nằm trong số 15 album thành công nhất thế kỷ 21 mà không có đĩa đơn quán quân nào trên Billboard Hot 100.[49] Album ra mắt Billboard 200 ở vị trí số tám nhờ doanh số 62.000 đơn vị rồi nhảy vọt lên hạng hai (vị trí cao nhất). Màn ra mắt tốt của tác phẩm có sự thúc đẩy từ thành công "Complicated", bài hát nhận được tần suất phát nhạc lớn trên MTV.[50] Doanh số bán theo tuần ngày càng tăng giúp cho album trụ trong top 10 của bảng xếp hạng trong 37 tuần.[51] Album tiêu thụ ở mức ít nhất là 100.000 bản mỗi tuần cho đến cuối năm 2002, dễ dàng tích lũy doanh số hơn hai triệu đơn vị.[9] Theo báo cáo của tạp chí Entertainment Weekly vào tháng 12 năm 2002, báo cáo ghi rằng album đã bán ra 3,9 triệu bản, trở thành album bán chạy thứ ba trong năm 2002 tại Hoa Kỳ.[52] Số liệu cuối năm do Nielsen SoundScan công bố cho biết Let Go đã tiêu thụ hơn 4,1 triệu bản tại Hoa Kỳ, tích lũy được sau 30 tuần phát hành album.[53][54] Let Go nhận được cú đúp đĩa bạch kim của Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ.[51] Thành tích này mang lại cho Let Go danh hiệu album đầu tay ăn khách nhất năm 2002 và album đầu tay bán chạy nhất của một nữ nghệ sĩ.[55] Ngày 30 tháng 4 năm 2003, RIAA cấp chứng nhận cho album tới sáu đĩa bạch kim, đánh dấu lượng tiêu thụ hơn sáu triệu đơn vị.[56] Đây vẫn là album bán chạy nhất của Lavigne tính đến nay, với 6,9 triệu bản tiêu thụ ở Hoa Kỳ và hơn 16 triệu đĩa bán ra toàn thế giới.

Trên bảng xếp hạng, album giành được những vị trí cao nhất tăng dần trong và sau các kỳ nghỉ lễ. Sau tiết mục khai mạc show ở giải Âm nhạc Billboard 2002, Let Go tiếp tục nằm trong top đĩa bán chạy nhất dịp lễ với doanh số 272.000 bản trong tuần đó.[57] Nhạc phẩm đạt mức doanh số tuần cao nhất trong số báo Billboard ngày 4 tháng 1 năm 2003 với 363.000 bản. Dẫu vươn cao nhất đến hạng hai vào tháng 9 năm 2002, Let Go đã nhảy từ vị trí số ba lên số hai trên Billboard 200 ở số báo ngày 1 tháng 2 năm 2003.[58] Nguyên nhân của sự tăng doanh số là do màn xuất hiện của Lavigne với vai trò nghệ sĩ khách mời tại Saturday Night Live vào ngày 11 tháng 1. Đã có những cáo buộc cô hát nhép song trong một buổi phỏng vấn lúc bấy giờ, Lavigne cho biết cô chưa bao giờ hát nhép hay có ý định đó. Cũng trong thời gian này, Lavigne nhận được nhiều sự đưa tin của giới truyền thông do các đề cử của cô tại giải Grammy 2003 và việc cô khởi động tour diễn Bắc Mỹ đầu tiên.[59] Tại Liên hiệp Anh, album mất nhiều thời gian hơn để chiếm ngôi đầu bảng UK Albums Chart. Ở tuần phát hành thứ 18 và nhờ có mặt trong xếp hạng năm 2003, album đã giành ngôi quán quân, vươn lên vị trí này sau dịp nghỉ lễ, giúp Lavigne phá kỷ lục thành nghệ sĩ nữ trẻ nhất đứng đầu bảng thời điểm ấy.[60] Tuy nhiên, kỷ lục đã bị Joss Stone xô đổ vào tháng 10 năm 2004, khi album Mind Body & Soul ra mắt ở ngôi quán quân trên UK Albums Chart lúc mà cô mới 17 tuổi và năm tháng.[61]

Doanh số bán album trên thị trường quốc tế tăng vọt nhờ thành công nối tiếp của "Sk8er Boi".[62] Let Go là album bán chạy thứ 12 trong năm 2003 tại Liên hiệp Anh.[63] Album có sáu lần nhận đĩa bạch kim của British Phonographic Industry.

Let Go cũng bán rất chạy ở Canada, vượt mốc doanh số một triệu đơn vị trong chưa đầy một năm. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Canada đã trao cho album chứng nhận kim cương vào tháng 5 năm 2003.[64] Đây là album bán chạy nhất của một nghệ sĩ Canada trong thế kỷ 21 (tính đến năm 2008).[65] Ở Úc, Let Go có bảy lần được chứng nhận đĩa bạch kim của Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc vào năm 2003, dựa trên doanh số 490.00 đơn vị từ bán buôn đến bản lẻ. Đây là album bán chạy thứ mười trong năm 2002, và là album bán chạy thứ ba trong năm 2003 tại quốc gia này.

Tác động và di sản

[sửa | sửa mã nguồn]

Let Go đứng thứ hai mươi trong danh sách những album vĩ đại nhất mọi thời đại trên Billboard 200 của nghệ sĩ nữ.[66] Một cuộc bầu chọn của độc giả Rolling Stone vinh danh Let Go là album hay thứ tư ở thập niên 2000.[67] Album được xem là một trong những nhạc phẩm làm thay đổi thị trường nhac pop punk, giúp củng cố vị trí của dòng nhạc trên thị trường đại chúng và góp phần làm tăng các ban nhạc pop punk có nữ hát chính và nhạc pop chịu ảnh hưởng từ punk của giới nữ nghệ sĩ.[68]

Danh sách ca khúc

[sửa | sửa mã nguồn]
Let Go – Bản chuẩn
STTNhan đềSáng tácNhà sản xuấtThời lượng
1."Losing Grip"Magness3:53
2."Complicated"
The Matrix4:05
3."Sk8er Boi"
  • Lavigne
  • Christy
  • Spock
  • Edwards
The Matrix3:23
4."I'm with You"
  • Lavigne
  • Christy
  • Spock
  • Edwards
The Matrix3:44
5."Mobile"
  • Lavigne
  • Magness
Magness3:31
6."Unwanted"
  • Lavigne
  • Magness
Magness3:40
7."Tomorrow"
Frasca3:48
8."Anything but Ordinary"
  • Lavigne
  • Christy
  • Spock
  • Edwards
The Matrix4:12
9."Things I'll Never Say"
  • Lavigne
  • Christy
  • Spock
  • Edwards
The Matrix3:44
10."My World"
  • Lavigne
  • Magness
Magness3:27
11."Nobody's Fool"Zizzo3:57
12."Too Much to Ask"
  • Lavigne
  • Magness
Magness3:46
13."Naked"
  • Lavigne
  • Frasca
  • Breer
  • Frasca
  • Magness
3:27
Tổng thời lượng:48:37
Let Go – bản của Nhật (bài tặng kèm)
STTNhan đềSáng tácNhà sản xuấtThời lượng
14."Why"
  • Lavigne
  • Zizzo
Zizzo4:00
Tổng thời lượng:52:37
Let Go – bản đặc biệt của Nhật Bản (bài tặng kèm)
STTNhan đềThời lượng
15."Complicated" (TV track version)4:05
16."Sk8er Boi" (TV track version)3:24
17."I'm with You" (TV track version)3:46
18."Losing Grip" (TV track version)3:53
Tổng thời lượng:67:45
Let GoBản kỷ niệm 20 (bài tặng kèm)[a]
STTNhan đềSáng tácNhà sản xuấtThời lượng
14."Why"
  • Lavigne
  • Zizzo
Zizzo3:54
15."Get Over It"
  • Lavigne
  • Christy
  • Spock
  • Edwards
The Matrix3:30
16."Breakaway"
3:43
17."Falling Down"
  • Lavigne
  • Christy
  • Spock
  • Edwards
The Matrix3:58
18."I Don't Give"
  • Lavigne
  • Christy
  • Spock
  • Edwards
The Matrix3:39
19."Make Up"
  • Lavigne
  • Christy
  • Spock
  • Edwards
The Matrix3:15
Tổng thời lượng:70:43
Let Go – bản tour hạn chế của Nhật (tặng kèm DVD)
STTNhan đềThời lượng
1."Complicated" (video) 
2."Sk8er Boi" (video) 
3."I'm with You" (video) 
4."A Day in the Life – N.Y.C." (EPK) 
Let Go – bản tour châu Á (tặng kèm đĩa)
STTNhan đềThời lượng
1."Get Over It" (audio) 
2."Why" (audio) 
3."Unwanted" (live audio) 
4."I'm with You" (live audio) 
5."Nobody's Fool" (live audio) 
6."Exclusive Behind-the-Scenes Footage" (video) 
7."Complicated" (video) 
8."Sk8er Boi" (video) 
9."I'm with You" (video) 
10."Losing Grip" (video) 

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận và doanh số

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Argentina (CAPIF)[144] 3× Bạch kim 120.000^
Úc (ARIA)[145] 7× Bạch kim 490.000^
Áo (IFPI Áo)[146] Bạch kim 30.000*
Bỉ (BEA)[147] Vàng 25.000*
Brasil (Pro-Música Brasil)[148] 2× Bạch kim 250.000*
Canada (Music Canada)[149] Kim cương 1.000.000^
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[150] 3× Bạch kim 60.000double-dagger
Phần Lan (Musiikkituottajat)[151] Vàng 16,256[151]
Pháp (SNEP)[152] Bạch kim 300.000*
Đức (BVMI)[153] 3× Vàng 750.000^
Hy Lạp (IFPI Hy Lạp)[81] Vàng 15.000^
Hungary (Mahasz)[154] Vàng 10.000^
Nhật Bản (RIAJ)[156] Million 1.300.000[155]
Hà Lan (NVPI)[157] Bạch kim 80.000^
New Zealand (RMNZ)[158] 5× Bạch kim 75.000^
Na Uy (IFPI)[159] Bạch kim 50.000*
Ba Lan (ZPAV)[160] Vàng 0*
Bồ Đào Nha (AFP)[161] Vàng 20.000^
Singapore (RIAS)[162] Vàng 5.000*
South Korea 209.459[C]
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[165] Bạch kim 100.000^
Thụy Điển (GLF)[166] Bạch kim 60.000^
Thụy Sĩ (IFPI)[167] 2× Bạch kim 80.000^
Anh Quốc (BPI)[169] 6× Bạch kim 1,820,483[168]
Hoa Kỳ (RIAA)[170] 7× Bạch kim 7.000.000double-dagger
Tổng hợp
Châu Âu (IFPI)[171] 2× Bạch kim 2.000.000*
Toàn thế giới 16.000.000[172]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.
double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Nguồn The Washington Post thì ghi là 1,25 triệu USD.[2]
  2. ^ Phiên bản tiêu chuẩn và phiên bản giới hạn tại Nhật Bản đạt vị trí thứ 6 trên bảng xếp hạng Nhật Bản, trong khi phiên bản tặng kèm đặc biệt đạt vị trí thứ 28 và phiên bản tại Nhật Bản đạt vị trí thứ 241.
  3. ^ Tại Hàn Quốc, Let Go đã bán được 177.731 bản tính đến tháng 5 năm 2003.[163] và phiên bản đóng gói lại của album đã bán được 31.728 bản tính đến tháng 8 năm 2003.[164]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Pak, SuChin; D'Angelo, Joe. “Avril Lavigne: The Real Deal”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  2. ^ a b David, Seagal (13 tháng 1 năm 2003). “Avril Lavigne, Unvarnished in a World off Pop Polish, Ragamuffin Rock”. The Washington Post (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  3. ^ Thorley, Joe (2003). Avril Lavigne: the unofficial book (bằng tiếng Anh). Luân Đôn: Virgin. tr. 30. ISBN 1-85227-049-7. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024. Reid was there and offered her a record deal, rumoured to be worth in excess of 1.9 million USD, on the spot. Shortly after, Avril was also offered a 1.4 million USD publishing advance. That's pretty big.
  4. ^ “Cdn. teen Avril Lavigne climbing the pop charts”. The Canadian Press. 3 tháng 6 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2010.
  5. ^ Quigley, Maeve (7 tháng 9 năm 2003). “They think I'm a tomboy .. but I'm looking forward to a white wedding”. Sunday Mirror. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2010.
  6. ^ a b c d e f g Eliscu, Jenny (20 tháng 3 năm 2003). “Little Miss Can't Be Wrong”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  7. ^ a b c d e f Jackson, Blair (1 tháng 11 năm 2002). “Recording Vocals”. Mixonline.com (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  8. ^ a b c d e f Buskin, Richard (tháng 4 năm 2006). “The Matrix: Writing & Producing in LA”. SOS. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  9. ^ a b c d e f g Willman, Chris (1 tháng 11 năm 2002). “Avril Lavigne The Anti-Britney”. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  10. ^ a b Elie (30 tháng 6 năm 2022). “Avril Lavigne Marks 20th Album Anniversary on Canal Street”. boweryboogie.com (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  11. ^ DeSantis, Rachel (29 tháng 6 năm 2022). “Avril Lavigne Recreates Classic 'Let Go' Album Cover in N.Y.C.: '20 Years Later...'. people.com (bằng tiếng Anh). People. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  12. ^ a b Pak, SuChin; D'Angelo, Joe. “Avril Lavigne: The Real Deal”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  13. ^ Brian, Garrit (5 tháng 8 năm 2002). “Santana, Whitney, Lavigne Head To DataPlay”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  14. ^ Techmoan. “DataPlay: The futuristic optical disc format that time forgot”. Youtube. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2020.[liên kết hỏng]
  15. ^ a b c d e f g h Willman, Chris (5 tháng 11 năm 2002). 'Boi,' Oh Boy”. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  16. ^ Carpenter, Troy (4 tháng 12 năm 2002). “Avril's First Headlining Trek To Begin in Europe”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  17. ^ Benson, John (1 tháng 5 năm 2003). “Avril Lavigne / 15 April 2003 / Cleveland (CSU Convocation Center)”. Billboard.
  18. ^ Sporich, Brett; The Hollywood Reporter; Carpenter, Troy (18 tháng 9 năm 2003). “Fox/Arista Prep Avril, Neptunes DVDs”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  19. ^ Cheung, Nadine. “Top 10 Avril Lavigne Songs”. AOL Radio. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  20. ^ Corner, Lewis (1 tháng 4 năm 2014). “Avril Lavigne's original version of Kelly Clarkson's 'Breakaway' leaks”. Digital Spy. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2021.
  21. ^ Blistein, Jon (3 tháng 6 năm 2022). “Avril Lavigne Drops New 'Breakway' Version, Unearths Rarities for 'Let Go' Anniversary”. Rolling Stone. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2022.
  22. ^ Shafer, Ellise (3 tháng 6 năm 2022). “Avril Lavigne Celebrates 'Let Go' 20th Anniversary With Expanded Edition, Including New Recording of 'Breakaway'. Variety. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2022.
  23. ^ a b c Saraceno, Christina. “Let Go: Avril Lavigne” (bằng tiếng Anh). AllMusic. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  24. ^ a b c Perry, John. “Avril Lavigne: Let Go” (bằng tiếng Anh). Blender. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  25. ^ a b Caramanica, Jon (14 tháng 6 năm 2002). “Let Go (2002)”. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh): 100. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  26. ^ a b Roth, Kaj. “Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Anh). Melodic. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  27. ^ Cox, Jamieson (16 tháng 12 năm 2018). “Avril Lavigne: Let Go Album Review”. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  28. ^ a b c Let Go at Metacritic
  29. ^ “CG: Avril Lavigne”. RobertChristgau.com (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  30. ^ a b Blashill, Pat (2 tháng 7 năm 2002). “Avril Lavigne: Let Go”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  31. ^ Cinquemani, Sal (8 tháng 7 năm 2002). “Avril Lavigne: Let Go” (bằng tiếng Anh). Slant Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  32. ^ Linsay, Cam. “Let Go Review” (bằng tiếng Anh). Stylus Magzine. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2002. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  33. ^ “Lavigne, Avril - Let Go”. Kilroy Records. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2014.
  34. ^ *“Backstreet Boys & Avril Lavigne”. Boston Theater. Let Go was the alt. rock, grungy soundtrack...
  35. ^ “MTV Video Music Awards 2002” (bằng tiếng Anh). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  36. ^ Wiederhorn, Jon (24 tháng 1 năm 2003). “Avril Lavigne, Linkin Park Win Big at MTV Asia Awards”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  37. ^ Cadorette, Guylaine (3 tháng 1 năm 2003). “Let the Music Play: 2003 Grammy Nominees Announced”. Hollywood.com (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  38. ^ “46th Annual Grammy Awards” (bằng tiếng Anh). VH1. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2004. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  39. ^ LeBlanc, Larry (7 tháng 4 năm 2003). “Avril Nabs Four Juno Awards”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  40. ^ Kotarba, Joe; Vannini, Phillip (23 tháng 8 năm 2006). Avril Lavigne wins Radio Disney Music Awards 2002. Taylor & Francis. tr. 95. ISBN 9780203894606. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  41. ^ “List of major Grammy nominees” (bằng tiếng Anh). A Time Warner Company. 4 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  42. ^ “Golden Disc Awards IFPI Hong Kong Group” (bằng tiếng Anh). Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  43. ^ “Jelöltek 2003”. fonogram.hu (bằng tiếng Hungary). 2003. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  44. ^ “The 17th Japan Gold Disc Award 2003” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  45. ^ “Nominees & Winners 2003” (bằng tiếng Anh). Giải Juno. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  46. ^ “Videos Awards Japan 07”. mtvjapan.com (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  47. ^ “Ana Torroja, David Bisbal, Bacilos y Maná ganadores de los "Oye!". nacion.com (bằng tiếng Tây Ban Nha). 16 tháng 11 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  48. ^ “2003 Teen Choice Awards Nominees”. Billboard (bằng tiếng Anh). Prometheus Global Media. 18 tháng 6 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  49. ^ Unterberger, Andrew (23 tháng 6 năm 2022). “15 of the Biggest 21st Century Albums That Never Scored a Hot 100 No. 1 Hit”. Billboard. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2022.
  50. ^ Ellis, Michael; Martens, Todd (13 tháng 6 năm 2002). “Eminem's 'Show' Still on Top of the Chart”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  51. ^ a b “Nothing 'Complicated' About It...Avril Is Double Platinum!” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. 4 tháng 9 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  52. ^ Susman, Gary (27 tháng 2 năm 2002). “White America”. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  53. ^ Conniff, Tamara (3 tháng 1 năm 2003). “Eminem Ends Year on Top, But Album Sales Tumble”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  54. ^ Martens, Todd (3 tháng 1 năm 2002). '8 Mile' Back Atop The Billboard 200”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  55. ^ “Eminem Leads 2002 RIAA Certifications”. Billboard (bằng tiếng Anh). 31 tháng 12 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  56. ^ “Gold and Platinum” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  57. ^ Todd, Martens (18 tháng 12 năm 2002). “Holiday Sales Keep Shania 'Up' On Top”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  58. ^ “The Billboard 200: Let Go”. Billboard (bằng tiếng Anh). 1 tháng 2 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  59. ^ Martens, Todd (22 tháng 1 năm 2003). “Norah Jones Remains on Top”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  60. ^ “The story behind Avril Lavigne's debut album Let Go on its 20th anniversary” (bằng tiếng Anh). Virgin Radio UK. 1 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2024.
  61. ^ “Stone album sets chart record”. Music Week. 4 tháng 10 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  62. ^ Sexton, Paul (6 tháng 1 năm 2003). “Avril Skates To No. 1 in the U.K.”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  63. ^ “Bestselling Albums 2003” (PDF) (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  64. ^ “Avril Lavigne presented with Diamond”. Canadian Recording Industry Association. tháng 5 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  65. ^ “Avril Lavigne Ends North American Run of Shows with Two Dates in Washington Beginning May 9”. transworldnews.com (bằng tiếng Anh). 4 tháng 5 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  66. ^ “Greatest of All Time Billboard 200 Albums by Women”. Billboard (bằng tiếng Anh). 30 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2023.
  67. ^ “Rolling Stone The Decade-End Readers' Poll” (bằng tiếng Anh). Rolling Stone. 8 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  68. ^ “6 Canadian albums that changed pop punk forever | AUX.TV”. 15 tháng 2 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2023.
  69. ^ "Australiancharts.com – Avril Lavigne – Let Go" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  70. ^ "Austriancharts.at – Avril Lavigne – Let Go" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  71. ^ "Ultratop.be – Avril Lavigne – Let Go" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  72. ^ "Ultratop.be – Avril Lavigne – Let Go" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  73. ^ "Avril Lavigne Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  74. ^ “Oficiální česká hitparáda IFPI ČR – 10. týden 2003”. Marketing & Media (bằng tiếng Séc). 10 tháng 3 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2018. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  75. ^ "Danishcharts.dk – Avril Lavigne – Let Go" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  76. ^ "Dutchcharts.nl – Avril Lavigne – Let Go" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  77. ^ “Hits of the World”. Billboard. 115 (3): 61. 18 tháng 1 năm 2003. ISSN 0006-2510 – qua Google Books.
  78. ^ "Avril Lavigne: Let Go" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  79. ^ "Lescharts.com – Avril Lavigne – Let Go" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  80. ^ "Offiziellecharts.de – Avril Lavigne – Let Go" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  81. ^ a b “Ελληνικό Chart – Top 50 Ξένων Aλμπουμ” (bằng tiếng Hy Lạp). IFPI Hy Lạp. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  82. ^ "Album Top 40 slágerlista – 2003. 6. hét" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  83. ^ "Irish-charts.com – Discography Avril Lavigne". Hung Medien. Truy cập 2 April 2020.
  84. ^ "Italiancharts.com – Avril Lavigne – Let Go" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  85. ^ アヴリル・ラヴィーンのアルバム売り上げランキング [Bảng xếp hạng doanh số bán album của Avril Lavigne] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2013.
  86. ^ "Charts.nz – Avril Lavigne – Let Go" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  87. ^ "Norwegiancharts.com – Avril Lavigne – Let Go" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  88. ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  89. ^ "Portuguesecharts.com – Avril Lavigne – Let Go" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  90. ^ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  91. ^ “RIAS CHART FOR WEEK ENDING 24 January 2003”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2003. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  92. ^ Salaverrie, Fernando (tháng 9 năm 2005). Sólo éxitos: año a año, 1959–2002 (bằng tiếng Tây Ban Nha) (ấn bản thứ 1). Madrid: Fundación Autor/SGAE. ISBN 84-8048-639-2.
  93. ^ "Swedishcharts.com – Avril Lavigne – Let Go" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  94. ^ "Swisscharts.com – Avril Lavigne – Let Go" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  95. ^ "Official Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  96. ^ "Avril Lavigne Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  97. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Albums 2002”. Australian Recording Industry Association. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  98. ^ “Jahreshitparade Alben 2002”. austriancharts.at (bằng tiếng Đức). Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  99. ^ “Jaaroverzichten 2002 – Albums” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  100. ^ “Rapports Annuels 2002 – Albums” (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  101. ^ “Top 200 Albums of 2002 (based on sales)”. Jam!. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 8 năm 2004. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  102. ^ “Canada's Top 200 Alternative albums of 2002”. Jam!. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2003. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  103. ^ “Chart of the Year 2002” (bằng tiếng Đan Mạch). TOP20.dk. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2014. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  104. ^ “Jaaroverzichten – Album 2002” (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Charts. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  105. ^ “Year in Review – European Top 100 Albums 2002” (PDF). Music & Media. 21 (2/3): 15. 11 tháng 1 năm 2003. OCLC 29800226 – qua World Radio History.
  106. ^ Danh sách đầu tiên là danh sách các album trong nước bán chạy nhất năm 2002 ở Phần Lan và danh sách thứ hai là các album nước ngoài bán chạy nhất:
  107. ^ “Tops de l'Année - Top Albums 2002” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  108. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts – 2002” (bằng tiếng Đức). Offizielle Deutsche Charts. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  109. ^ “Best of 2002 – Albums”. Irish Recorded Music Association. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  110. ^ “Classifica Annuale 2002 (dal 31.12.2001 al 29.12.2002) – Album & Compilation” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2013.
  111. ^ 2002年 アルバム年間TOP100 [Year-End Albums Chart of 2002] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2008. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024 – qua GeoCities.
  112. ^ “Top Selling Albums of 2002”. Recorded Music NZ. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  113. ^ “Årslista Album – År 2002” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  114. ^ “Årslista Album (inkl samlingar), 2002” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2021.
  115. ^ “Schweizer Jahreshitparade 2002”. hitparade.ch (bằng tiếng Đức). Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  116. ^ “End of Year Album Chart Top 100 – 2002”. Official Charts Company. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2016.
  117. ^ “Billboard 200 Albums – Year-End 2002”. Billboard. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  118. ^ “Top 50 Global Best Selling Albums for 2002” (PDF). International Federation of the Phonographic Industry. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 1 năm 2009. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  119. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Albums 2003”. Australian Recording Industry Association. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  120. ^ “Jahreshitparade Alben 2003”. austriancharts.at (bằng tiếng Đức). Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  121. ^ “Jaaroverzichten 2003 – Albums” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  122. ^ “Rapports Annuels 2003 – Albums” (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  123. ^ “Chart of the Year 2003” (bằng tiếng Đan Mạch). TOP20.dk. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2012. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  124. ^ “Jaaroverzichten – Album 2003” (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Charts. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  125. ^ “Europe's Top Albums of 2003”. Billboard. 115 (52): 65. 27 tháng 12 năm 2003. ISSN 0006-2510 – qua Google Books.
  126. ^ “Tops de l'Année - Top Albums 2003” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  127. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts – 2003” (bằng tiếng Đức). Offizielle Deutsche Charts. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  128. ^ “Összesített album- és válogatáslemez-lista – eladási darabszám alapján – 2003” (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  129. ^ “Best of 2003 – Albums”. Irish Recorded Music Association. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  130. ^ “Classifica Annuale 2003 (dal 30.12.2002 al 28.12.2003) – Album & Compilation” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  131. ^ 2003 付 CDアルバム BEST100 [Best Albums of 2003] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2004. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  132. ^ “Top Selling Albums of 2003”. Recorded Music NZ. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  133. ^ “2003년 - POP 음반 판매량” (bằng tiếng Korean). MIAK. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2007. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  134. ^ “Årslista Album – År 2003” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  135. ^ “Schweizer Jahreshitparade 2003”. hitparade.ch (bằng tiếng Đức). Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  136. ^ “End of Year Album Chart Top 100 – 2003”. Official Charts Company. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2016.
  137. ^ “Billboard 200 Albums – Year-End 2003”. Billboard. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  138. ^ “Top 50 Global Best Selling Albums for 2003” (PDF). International Federation of the Phonographic Industry. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 1 năm 2009. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  139. ^ “ARIA Top 100 Albums of the 00's”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2021.
  140. ^ “The Noughties' Official UK Albums Chart Top 100”. Music Week: 19. 30 tháng 1 năm 2010. ISSN 0265-1548.
  141. ^ “Decade End Charts – Billboard 200 Albums”. Billboard. 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2011. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  142. ^ “Ireland's Top 50 biggest female artist albums”. The Official Charts Company. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2019. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  143. ^ “Greatest of All Time: Billboard 200 Albums”. Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2015.
  144. ^ “Discos de oro y platino” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Cámara Argentina de Productores de Fonogramas y Videogramas. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2007. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  145. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2003 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  146. ^ “Chứng nhận album Áo – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  147. ^ “Ultratop − Goud en Platina – albums 2003” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  148. ^ “Chứng nhận album Brasil – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  149. ^ “Chứng nhận album Canada – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  150. ^ “Chứng nhận album Đan Mạch – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  151. ^ a b “Chứng nhận album Phần Lan – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  152. ^ “Chứng nhận album Pháp – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  153. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Avril Lavigne; 'Let Go')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  154. ^ “Adatbázis – Arany- és platinalemezek – 2003” (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  155. ^ Schwartz, Rob (4 tháng 9 năm 2010). “Nippon Express”. Billboard: 14. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  156. ^ “Chứng nhận album Nhật Bản – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Chọn 2003年2月 ở menu thả xuống
  157. ^ “Chứng nhận album Hà Lan – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Hà Lan). Nederlandse Vereniging van Producenten en Importeurs van beeld- en geluidsdragers. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024. Enter Let Go in the "Artiest of titel" box. Select 2003 in the drop-down menu saying "Alle jaargangen".
  158. ^ “Chứng nhận album New Zealand – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ.
  159. ^ “IFPI Norsk platebransje Trofeer 1993–2011” (bằng tiếng Na Uy). IFPI Na Uy. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  160. ^ “Wyróżnienia – płyty CD - Archiwum - Przyznane w 2005 roku” (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan. 29 tháng 6 năm 2005. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  161. ^ “Chứng nhận album Bồ Đào Nha – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Associação Fonográfica Portuguesa. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2012. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  162. ^ “Chứng nhận album Singapore – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Singapore. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  163. ^ “자료제공:(사)한국음반산업협회/이 자료는당협회와 상의없이 가공,편집을금합니다. - 2003.05월 - POP 음반 판매량” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2004.
  164. ^ “자료제공:(사)한국음반산업협회/이 자료는당협회와 상의없이 가공,편집을금합니다. - 2003.08월 - POP 음반 판매량” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2004.
  165. ^ “Chứng nhận album Tây Ban Nha” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024. Chọn Álbumes dưới "Categoría", chọn 2005 dưới "Año". Chọn 41 dưới "Semana". Nhấn vào "BUSCAR LISTA".
  166. ^ “Sverigetopplistan – Avril Lavigne” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan.
  167. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('Let Go')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  168. ^ Jones, Alan (22 tháng 2 năm 2019). “Charts analysis: Ariana Grande secures second week at album summit”. Music Week. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  169. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. 23 tháng 12 năm 2016. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  170. ^ “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  171. ^ “IFPI Platinum Europe Awards – 2003”. Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  172. ^ Rick Fulton (10 tháng 1 năm 2011). “Avril Lavigne: Madonna is my idol”. Daily Record. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]