Nothing Special   »   [go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Joo Ji-hoon

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đây là một tên người Triều Tiên, họ là Joo.
Joo Ji-hoon
Joo Ji-hoon vào năm 2018
SinhJoo Young-hoon
16 tháng 5, 1982 (42 tuổi)
Seoul,  Hàn Quốc
Quốc tịch Hàn Quốc
Trường lớpĐại học Gyong-gi (Chuyên ngành Diễn xuất)[1]
Năm hoạt động2003–nay
Người đại diệnKeyEast Entertainment
Chiều cao1,88 m (6 ft 2 in)[1]
Cân nặng73 kg (161 lb)
Websitewww.ju-jihoon.com
Tên tiếng Triều Tiên
Hangul
Romaja quốc ngữJu Ji-hun
McCune–ReischauerChu Chi-hun

Joo Ji-hoon (Tiếng Hàn주지훈; Hán-Việt: Chu Chí Huân), tên khai sinh là Joo Young-hoon (Tiếng Hàn주영훈; Hán-Việt: Chu Chính Huân, sinh ngày 16 tháng 5 năm 1982), là một nam diễn viênngười mẫu người Hàn Quốc. Vai chính đầu tiên của anh là Hoàng Thái tử Lee Sin trong phim truyền hình của đài MBC mang tên Được làm hoàng hậu. Anh còn tham gia vào một số tác phẩm như Antique vào năm 2008 hay vào vai Hoàng tử Choong-nyeong trong phim Hoàng đế bất đắc dĩ vào năm 2012. Công ty quản lý của anh là KeyEast Entertainment[2].

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2003, khi đang là sinh viên đại học, Ji-hoon được mời làm người mẫu nhờ chiều cao lý tưởng 1,88 m cùng gương mặt điển trai. Anh khởi nghiệp với nghề người mẫu với các quảng cáo cho các nhãn hàng như Calvin Klein, Levi'sReebok. Anh cũng từng giành nhiều giải thưởng người mẫu. Trước khi tham gia vào ngành giải trí, anh theo học tại trường Đại học Tong-won, chuyên ngành Thương mại Điện tử.

2006–2008: Khởi nghiệp diễn xuất và tài năng được công nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Phim truyền hình đầu tiên của Ji-hoon là Old Love, nhưng phải đến khi tham gia bộ phim Được làm hoàng hậu cùng với Yoon Eun-hyeSong Ji-hyo, anh mới thực sự được công nhận là một diễn viên và bắt đầu được công chúng biết đến. Phim truyền hình này giúp anh thắng nhiều hạng mục trong Lễ trao giải Giải thưởng Phim truyền hình MBC năm đó. Anh được giới chuyên đánh giá diễn xuất bằng mắt tốt, khiến nhân vật toát lên vẻ lạnh lùng nhưng cuốn hút. Tác phẩm đầu tay giúp tên tuổi của Ji-hoon lan tỏa châu Á, nhất là Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và Thái Lan.

Tháng 3 năm 2007, Ji-hoon tiếp tục tham gia bộ phim The Devil, một tác phẩm của đài KBS. Anh đã thực hiện chế độ giảm cân và thay đổi diện mạo lần đầu tiên cho một vai diễn. Anh được chọn là một trong những Ngôi sao châu Á mới năm 2007 cùng với sáu người khác tại Lễ trao giải Giải thưởng Phim truyền hình Astar theo các tiêu chí như mức độ, tiềm năng và sự đón nhận của khán giả tại nhiều nước châu Á.[3]

Bộ phim rạp đầu tiên của Ji-hoon là Antique dựa trên một tác phẩm truyện tranh, khởi chiếu từ ngày 13 tháng 11 năm 2008. Anh đóng vai Kim Jin-hyeok. Tham gia phim còn có Kim Jae-wook, Yoo Ah-in và Choi Ji-ho. Nhờ Antique, Ji-hoon được mời tham dự Liên hoan Phim Quốc tế Berlin lần thứ 59.[4]

2009: Vụ bê bối về ma túy

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 27 tháng 4 năm 2009, Ji-hoon bị triệu tập về trụ sở Cảnh sát Seoul về việc có liên quan đến sử dụng chất gây nghiện trái phép. Cùng 15 người nữa, anh bị bắt vì liên quan đến đường dây cung cấp thuốc lắc.[5] Ngày 23 tháng 6 năm 2009, Ji-hoon xuất hiện ở tòa án sau khi nhận tội sử dụng thuốc lắc và chất gây nghiện. Anh bị phạt tù 6 tháng, quản giáo 1 năm, chịu 120 giờ lao động công ích, và bị phạt 360,000 ₩. Thẩm phán giải thích: "Bản chất của tội phạm là không trong sạch. Tuy nhiên, anh ấy đã nhận ra lỗi lầm và ý thức sâu sắc việc mình phải làm. Anh ấy đã không sử dụng ma túy trong 1 năm và 2 tháng trước đó. Rất nhiều người hâm mộ cũng tỏ ra quan tâm và gửi nhiều kiến nghị đến tòa án kêu gọi một phán quyết hợp lý". Luật sư của Ji-hoon cũng phát biểu: "Việc phạm tội và nhận trừng phạt là tất yếu. Nhưng vì thông tin được cung cấp hoàn toàn có thể bị sai lệch và việc này khiến câu chuyện bị thổi phồng anh là một người sử dụng thường xuyên, phán quyết thực sự không công bằng".

Ngay khi chưa có kết luận của cơ quan chức năng, Ji-hoon lập tức bị các thương hiệu lớn chấm dứt hợp đồng vì lo sự tẩy chay của công chúng. Phim The Naked Kitchen có anh đóng vừa quay xong đã bị cấm chiếu. Các đài truyền hình lớn cũng loại anh khỏi những dự án làm phim trước mắt.

2010-2011: Nhập ngũ và hoạt động trong quân ngũ

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 2 tháng 2 năm 2010, ngay sau khi mãn hạn tù, Ji-hoon quyết định nhập ngũ để tạm tránh xa dư luận. Anh thực hiện nghĩa vụ phục vụ Tổ quốc tại Uijeongbu, tỉnh Gyeong-gi.[6][7] Trang báo Naver của Hàn Quốc cho biết khi đó dư luận vẫn công kích Joo Ji-hoon, không đồng tình vì cơ quan chức năng đã có phần khoan dung với anh.

Tháng 8, anh cùng Lee Joon-gi tham gia nhạc kịch quân đội Voyage of Life kỷ niệm 60 năm kết thúc cuộc chiến tranh Triều Tiên, dàn dựng bởi Bộ Quốc phòng và Hiệp hội Nhạc kịch Hàn Quốc. Vở nhạc kịch được trình diễn từ ngày 21 tới ngày 29/8 tại Nhà hát kịch Quốc gia.[8][9] Ji-hoon giải ngũ vào ngày 21/11/2011.[10][11]

2011 - 2016: Tái xuất

[sửa | sửa mã nguồn]
Joo Ji-hoon năm 2019

Tháng 1 năm 2011, sau khi giải ngũ, anh ký hợp đồng với KeyEast Entertainment, công ty dưới trướng diễn viên Bae Yong-joon.[12] Chủ tịch Bae cho biết coi trọng tài năng của anh. Công ty lên kế hoạch phát triển sự nghiệp cho Joo Ji-hoon ở cả Hàn Quốc lẫn nước ngoài.

Kế hoạch trở lại của Ji-hoon là vào vai Yuri Zhivago trong vở nhạc kịch Doctor Zhivago.[13][14] Tuy nhiên, anh đã rút khỏi vở nhạc kịch sau hai tuần sau đó bởi chấn thương thanh quản và được bác sĩ yêu cầu nghỉ ngơi.[15][16]

Tháng 8, Ji-hoon trở lại màn ảnh lớn với phim Hoàng đế bất đắc dĩ.[17][18] Anh thủ vai Hoàng tử Choong-Nyeong, người sau này trở thành vua Se-jong.[19]

Tiếp đó, anh tái xuất trên màn ảnh nhỏ với vai Yoo Ji-ho trong bộ phim truyền hình về âm nhạc của đài SBS mang tên Năm ngón tay, đóng cùng với Ji Chang-wookJin Se-yeon, lên sóng từ tháng 8 đến tháng 11 năm 2012.[20][21]

Năm 2013, Joo đóng vai chính trong phim truyền hình về y khoa Đội ngũ danh y, và phim hài lãng mạn Marriage Blue.

Joo ra mắt điện ảnh ở Trung Quốc với Love Suspicion, một bộ phim kinh dị lãng mạn. Năm 2014, Ju đóng cặp với Ji Sung và Lee Kwang-soo trong Lời thú tội, một bộ phim thể loại neo-noir khám phá hậu quả của tình bạn ba người đàn ông sau cái chết của mẹ một người.

Năm 2015, Joo đóng vai chính trong bộ phim cổ trang Vương triều dục vọng, tái hợp anh với đạo diễn của Antique and Naked Kitchen. Sau đó, anh trở lại màn ảnh nhỏ với bộ phim tâm lý tình cảm Mặt nạ của đài SBS cùng với Soo Ae, Yeon Jung-hoonYoo In-young.

Năm 2016, Joo đóng vai chính trong phim tội phạm kinh dị Asura: The City of Madness, được công chiếu lần đầu trên toàn cầu tại Liên hoan phim Toronto lần thứ 41. Anh đã nhận được giải thưởng Ngôi sao điện ảnh nổi tiếng tại Lễ trao giải Top ngôi sao Hàn Quốc.

Các tác phẩm mà anh tham gia trong giai đoạn trên đều được đánh giá cao nội dung, quy tụ dàn diễn viên thực lực, tuy nhiên Joo Ji-hoon vẫn bị truyền thông lẫn khán giả lạnh nhạt.

2017-nay: Hồi sinh sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]
Joo Ji-hoon trong sự kiện trao giải Ngôi sao châu Á năm 2018

Sự nghiệp của Joo bắt đầu khởi sắc trở lại kể từ năm 2017. Từ năm 2017 đến 2018, Ju đóng vai chính trong bộ phim sử thi giả tưởng dài hai phần Thử thách thần chết. Bộ phim có doanh thu cao thứ hai ở Hàn Quốc, và Joo được biết đến với vai diễn Haewonmaek. Tác phẩm có kinh phí lên đến 40 tỷ won (hơn 800 tỷ đồng) - thuộc hàng cao nhất màn ảnh Hàn. Nhà sản xuất thu về doanh thu cao gấp đôi và hút 14,4 triệu người đến rạp. Dự án hiện là phim điện ảnh ăn khách thứ ba lịch sử phòng vé nước này.

Năm 2018, Joo đóng vai chính trong các bộ phim kinh dị Kế hoạch Bắc Hàn, và Bảy thi thể. Diễn xuất của Joo trong cả hai bộ phim đều được ca ngợi, và anh đã giành được một số giải thưởng Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất tại các lễ trao giải điện ảnh cho vai diễn trong Kế hoạch Bắc Hàn, và được đề cử Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Rồng Xanh cho Bảy thi thể.

Năm 2019, Joo trở lại màn ảnh nhỏ với hai phim truyền hình: phim truyền hình cổ trang zombie Vương triều xác sống của Netflix và tái hợp cùng Jin Se-yeon trong phim truyền hình pháp luật giả tưởng Vật chứng của đài MBC.

Cuối tháng 4 năm 2019, Forbes Hàn Quốc công bố danh sách 40 ngôi sao quyền lực nhất quốc gia này năm 2019, trong đó Joo Ji-hoon đứng thứ 40.[22] Thống kê dựa trên bốn chỉ số: lợi nhuận (từ việc đóng phim, bán album, hợp đồng quảng cáo và kinh doanh), tiếp xúc với truyền thông, hoạt động phát sóng và ảnh hưởng trên mạng xã hội. Giới chuyên môn Hàn Quốc nhận định đây là kỳ tích của Joo Ji-hoon sau vụ bê bối ma túy gây chấn động 10 năm trước đó.

Năm 2020, Joo tiếp tục vai diễn của mình trong phần thứ hai của Vương triều xác sống, và đóng vai chính trong bộ phim pháp luật Chị đại khi yêu cùng với bạn diễn hơn tuổi Kim Hye-soo.

Vào tháng 1 năm 2021, Joo ký hợp đồng với công ty mới H& Entertainment.

Danh sách tác phẩm

[sửa | sửa mã nguồn]

Phim rạp

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên phim Vai
2008 Antique Kim Jin-hyeok
2009 The Naked Kitchen Park Du-re
2012 Hoàng đế bất đắc dĩ Yi Do/Deok-chil
2013 Marriage Blue Kyung-soo
2014 Love Suspicion Kang-han
Lời thú tội In-chul
2015 Vương triều dục vọng Im Soong-jae
2016 Asura: The city of madness Moon Seon Mo
2017 Thử thách thần chết: Giữa hai thế giới Hae Won Maek
2018 Thử thách thần chết: 49 ngày cuối cùng Hae Won Maek
Kế hoạch Bắc Hàn Jung Moo Taek
Bảy thi thể Kang Tae Oh

Phim truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên phim Vai Đài
2006 Được làm hoàng hậu Thái tử Lee Shin MBC
2007 The Devil Oh Seung-ha KBS2
2012 Năm ngón tay Yoo Ji-ho SBS
2013 Đội ngũ danh y Han Seung-jae MBC
2015 Mặt nạ Choi Min-woo SBS
2019 Vương triều xác sống phần 1 Thái tử Lee Chang Netflix
Vật chứng Kang Gon MBC
2020 Vương triều xác sống phần 2 Thái tử Lee Chang Netflix
2020 Chị đại khi yêu Yoon Hee-jae Netflix
2021 Bí ẩn núi Jiri Kang Hyun-jo với Jun Ji-hyun tvN
TBA Dominant Species/Blood Free Woo Chae-woon với Han Hyo-joo Disney+

Video ca nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Song Title Artist
2012 "처연"[29] Lowdown 30
2014 "Fxxk U" Gain feat. Bumkey

Cuộc sống cá nhân

[sửa | sửa mã nguồn]

Joo Ji-hoon từng hẹn hò nữ ca sĩ Gain (em út nhóm nhạc Brown Eyed Girls) trong ba năm, từ năm 2014 đến 2017. Họ bén duyên khi đóng chung MV 19+ và đường ai nấy đi khi Gain công khai gọi bạn trai là "kẻ nghiện ngập" trên mạng xã hội.

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Giải thưởng Hạng mục Tác phẩm đề cử Kết quả Chú
thích
2004 Giải Swan cho diễn viên ăn mặc đẹp nhất Hàn Quốc Người mẫu nam xuất sắc nhất Đoạt giải [23]
2005 Hiệp hội các nhiếp ảnh gia Đoạt giải [24]
Giải Swan cho diễn viên ăn mặc đẹp nhất Hàn Quốc Đoạt giải
Tạp chí phong cách Người mẫu nam phong cách nhất Đoạt giải
2006 Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang thứ 42 Nam diễn viên trẻ xuất sắc nhẩt (TV) Được làm hoàng hậu Đề cử
Giải thưởng phim truyền hình MBC Nam diễn viên trẻ xuất sắc nhất Đoạt giải [25]
2007 Giải thưởng phim truyền hình KBS Giải thưởng xuất sắc, diễn viên trong một miniseries The Devil Đề cử
2008 Giải thưởng Liên hoan Người mẫu Châu Á Giải thưởng Ngôi sao Đoạt giải [26]
2009 Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang thứ 45 Nam diễn viên trẻ xuất sắc nhất Antique Đề cử
Nam diễn viên nổi tiếng nhất Đoạt giải [27]
2012 Giải thưởng phim truyền hình SBS Giải thưởng xuất sắc, nam diễn viên phim truyền hình cuối tuần/hàng ngày Năm ngón tay Đề cử
2013 Giải thưởng Ngôi sao APAN lần thứ hai Giải thưởng Ngôi sao nổi tiếng Đoạt giải [28]
Giải thưởng phim truyền hình MBC Giải thưởng xuất sắc, diễn viên trong một miniseries Đội ngũ danh y Đề cử
2015 Giải thưởng phim truyền hình SBS Giải thưởng xuất sắc, diễn viên trong một bộ phim truyền hình đặc biệt Mặt nạ Đoạt giải [29]
Giải thưởng top 10 ngôi sao Đoạt giải [30]
2016 Hiệp hội diễn viên điện ảnh Hàn Quốc Giải thưởng Ngôi sao điện ảnh nổi tiếng Asura: The City of Madness Đoạt giải [31]
2017 Giải thưởng Nghệ thuật điện ảnh Chunsa lần thứ 22 Nam diễn viên phụ hay nhất Đề cử
Giải thưởng điện ảnh Buil lần thứ 26 Đề cử
2018 Giải thưởng Seoul lần thứ hai Thử thách thần chết: Giữa hai thế giới, Kế hoạch Bắc Hàn Đoạt giải [32]
Giải thưởng Ngôi sao châu Á Marie Claire lần thứ 6 Giải thưởng Ngôi sao châu Á Đoạt giải [33]
Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 39 Nam diễn viên xuất sắc nhất Bảy thi thể Đề cử [34]
Giải thưởng Ngôi sao nổi tiếng Kế hoạch Bắc Hàn Đoạt giải [35]
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất Đề cử
Giải thưởng điện ảnh Buil lần thứ 27 Đoạt giải [36]
Giải thưởng Hiệp hội phê bình điện ảnh Hàn Quốc lần thứ 38 Đoạt giải [37]
3rd Giải thưởng Nghệ sĩ châu Á Nghệ sĩ của năm Đoạt giải [38]
Nam diễn viên xuẩt sắc nhất Đoạt giải
Giải thưởng Ngày Người tiêu dùng KCA lần thứ 23 Thử thách thần chết: Giữa hai thế giới, Bảy thi thể Đoạt giải [39]
Giải thưởng Hiệp hội các nhà sản xuất phim Hàn Quốc lần thứ 5 Bảy thi thể Đoạt giải [40]
2019 Giải thưởng Nghẹ thuật Baeksang lần thứ 55 Nam diễn viên xuất sắc nhất (phim rạp) Đề cử [41]
Liên hoan phim điện ảnh vàng lần thứ 39 Nam diễn viên xuẩt sắc nhất Đoạt giải [42]
Giải thưởng điện ảnh Buil lần thứ 28 Đề cử [43]
Giải thưởng Nghệ thuật Điện ảnh Chunsa lần thứ 24 Đoạt giải [44]
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất Kế hoạch Bắc Hàn Đề cử [45][46]
Giải thưởng điện ảnh KOFRA lần thứ 10 Đoạt giải [47]
Giải thưởng phim truyền hình MBC Giải thưởng xuất sắc hàng đầu, nam diễn viên trong phim truyền hình ngắn từ thứ Hai đến thứ Ba Vật chứng Đề cử
2020 Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 56 Nam diễn viên xuất sắc nhẩt (TV) Chị đại khi yêu Đề cử [48]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b “Ju Ji Hoon Biography”. Ju Ji Hoon (bằng tiếng Anh). 2011. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2011.
  2. ^ Lee, InKyung (ngày 7 tháng 3 năm 2012). “Why are Actor Agencies Going the Idol Way?”. enewsWorld. CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  3. ^ “Ju Ji-hoon Selected New Asian Star of 2007”. KBS Global. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2007.
  4. ^ “6 Korean Films to Screen at Berlin Festival”. Chosun Ilbo. ngày 30 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2012.
  5. ^ “Movie Star Booked on Drug Charges”. Chosun Ilbo. ngày 28 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  6. ^ Kang, Seung-hun (ngày 14 tháng 1 năm 2010). “Joo Ji-hoon to enter military next month”. 10 Asia. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  7. ^ Yun, Tae-hui (ngày 2 tháng 2 năm 2010). “Actor Joo Ji-hoon enters military”. 10 Asia. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  8. ^ Jang, Kyung-Jin (ngày 3 tháng 8 năm 2010). “Lee Jun-ki says "depressed about Joo Ji-hoon turning first private today" (2)”. 10 Asia. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  9. ^ Lee, Jin-hyuk (ngày 3 tháng 8 năm 2010). “Joo Ji-hoon attends "Voyage of Life" press conference”. 10 Asia. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  10. ^ Hong, Lucia (ngày 11 tháng 11 năm 2011). “Ju Ji-hoon to be discharged from military next week”. 10 Asia. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  11. ^ “Actor Joo Ji-hoon salutes his fans after completing his mandatory military service in Seoul on Monday”. Chosun Ilbo. ngày 22 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  12. ^ Kim, Heidi (ngày 5 tháng 1 năm 2011). “Actor Joo Ji-hoon signs with Bae Yong-joon agency”. 10 Asia. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  13. ^ Palace actor returns with starring role in 'Dr. Zhivago' musical”. Joongang Daily. ngày 1 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  14. ^ Kim, Jessica (ngày 18 tháng 11 năm 2011). “Ju Ji-hoon selects musical as comeback project”. 10 Asia. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  15. ^ Sunwoo, Carla (ngày 10 tháng 1 năm 2012). “Actor Ju Ji-hoon drops out of 'Doctor Zhivago' weeks before it opens”. Joongang Daily. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  16. ^ Kim, Jessica (ngày 10 tháng 1 năm 2012). “Ju Ji-hoon steps down from musical Doctor Zhivago. 10 Asia. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  17. ^ “주지훈, 철 들었는지 아직 모르겠다”. Nate News (bằng tiếng Triều Tiên). ngày 31 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  18. ^ Lee, JinHo (ngày 21 tháng 7 năm 2012). “Joo Ji Hoon Says He′ll Dress Up Like a Servant If ′I Am the King′ Succeeds”. enewsWorld. CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  19. ^ Cho, Jae-eun (10 tháng 8 năm 0201). “New films plumb obscure Joseon period events... with a comic twist”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  20. ^ Ho, Stewart (ngày 13 tháng 6 năm 2012). “Joo Ji Hoon to Make Drama Comeback in Five Years; First Since His Drug Scandal”. enewsWorld. CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  21. ^ Yoon Hee-Seong; Monica Suk (ngày 13 tháng 6 năm 2012). “Ju Ji-hoon to return to the small screen, says he is reflecting on himself”. 10 Asia. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.[liên kết hỏng]
  22. ^ “Tài tử Hàn nỗ lực làm lại cuộc đời sau tai tiếng nghiện ngập, tù tội”. VnExpress. 12 tháng 5 năm 2019.
  23. ^ 제21회 코리아 베스트 드레서 시상식. The Chosun Ilbo (bằng tiếng Hàn). ngày 3 tháng 12 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2020.
  24. ^ 주지훈, 패션 사진 작가들이 뽑은 최고의 스타. inews24 (bằng tiếng Hàn). ngày 27 tháng 12 năm 2005.
  25. ^ “주지훈 원기준, MBC연기대상 남자신인상 수상”. Star News (bằng tiếng Hàn). ngày 30 tháng 12 năm 2006.
  26. ^ “2008 Asia Model Awards Model Star Award (Korea) Joo Ji Hun & Han Ye Seul”. AMFOC. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2018.
  27. ^ [백상] 주지훈-박보영, 영화 부문 인기상 수상. The Chosun Ilbo (bằng tiếng Hàn). ngày 27 tháng 2 năm 2009.
  28. ^ “2013 APAN STAR AWARDS”. MK News (bằng tiếng Hàn). ngày 17 tháng 11 năm 2013.
  29. ^ 'SBS 연기대상' 주지훈·고아성, 중편드라마부문 우수상 수상”. TenAsia (bằng tiếng Hàn). ngày 1 tháng 1 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2020.
  30. ^ 'SBS 연기대상' 10대 스타상, 김태희·주지훈·박유천 등 10명 수상”. TenAsia (bằng tiếng Hàn). ngày 31 tháng 12 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2020.
  31. ^ “Actors Gong Hyo-jin, Cho Jung-seok, Cho Jin-woong win top star award”. The Korea Herald. ngày 30 tháng 12 năm 2006.
  32. ^ “THE SPY GONE NORTH Tops Seoul Awards”. Korean Film Biz Zone. ngày 7 tháng 11 năm 2018.
  33. ^ “#BIFF 아시아 스타 어워즈 2018”. Marie Clarie Korea (bằng tiếng Hàn). tháng 10 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2020.
  34. ^ 청룡영화상 후보 발표, '1987' 최다·'공작'도 9개부문 후보. Newsen (bằng tiếng Hàn). ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  35. ^ “1987 Comes Out on Top at Blue Dragon Awards”. Korean Film Biz Zone. ngày 6 tháng 12 năm 2018.
  36. ^ “[23rd BIFF]'공작' 주지훈, 부일영화상 남우조연상.."역할 양보해준 김남길 감사". The Chosun Ilbo (bằng tiếng Hàn). ngày 5 tháng 10 năm 2018.
  37. ^ “1987 Tops 38th Korean Film Critics Awards”. Korean Film Biz Zone. ngày 30 tháng 10 năm 2018.
  38. ^ “BTS win the Daesang at Asia Artist Awards 2018 – and are among Artists Of The Year”. Metro. ngày 28 tháng 11 năm 2018.
  39. ^ “[N현장] 하정우→워너원·'윤식당2', 2018 소비자가 뽑은 영광의 얼굴들(종합)”. News1 (bằng tiếng Hàn). ngày 17 tháng 12 năm 2018.
  40. ^ “1987 Takes Home Another Grand Prize at KFPA Awards”. Korean Film Biz Zone. ngày 24 tháng 12 năm 2018.
  41. ^ Cho, Yeon-gyeong (ngày 5 tháng 4 năm 2019). 55회 백상예술대상 영화부문 최종 후보 공개. Is Plus (bằng tiếng Hàn). Naver. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2019.
  42. ^ “Korea Gold Awards honors winners”. Korea JoongAng Daily. ngày 31 tháng 7 năm 2019.
  43. ^ “28th Buil Film Awards Nominees 2019”. HanCinema. ngày 28 tháng 8 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2020.
  44. ^ “BONG Joon-ho Wins Best Director at Chunsa Film Art Awards”. Korean Film Biz Zone. ngày 25 tháng 7 năm 2019.
  45. ^ “2019 춘사영화제, 7월 18일 개최..트로피 주인공 누구?”. K Starnews (bằng tiếng Hàn). ngày 3 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2019.
  46. ^ “[제24회 춘사영화제] 주지훈·조여정, 男女 주연상 '영예'... '기생충' 4관왕 (종합)”. Ten Asia (bằng tiếng Hàn). ngày 18 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2019.
  47. ^ '올해의 영화상' 이성민X한지민, 남녀주연상..작품상 '공작'[종합]”. Osen (bằng tiếng Hàn). ngày 30 tháng 1 năm 2019.
  48. ^ MacDonald, Joan (ngày 8 tháng 5 năm 2020). “Baeksang Arts Awards Announces Nominees And Plans To Proceed Without An Audience”. Forbes. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2020.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]