Nothing Special   »   [go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Frédéric Chopin

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Frédéric Chopin
Chopin chụp chính diện, mặc áo khoác
Chân dung Chopin chụp bằng phương pháp Daguerre, bởi Louis-Auguste Bisson, k. 1849.
SinhFryderyk Franciszek Chopin
(1810-03-01)1 tháng 3 năm 1810
Żelazowa Wola, Ba Lan
Mất17 tháng 10 năm 1849(1849-10-17) (39 tuổi)
Paris, Pháp
Nghề nghiệpNhà soạn nhạc, nghệ sĩ dương cầm.
Năm hoạt động1817-1848
Con cáiKhông có
Cha mẹ
  • Mikołaj Chopin (cha)
  • Tekla Justyna Krzyżanowska (mẹ)
Chữ ký

Frédéric François Chopin[gc 1] (tên khai sinh Fryderyk Franciszek Szopen;[gc 2][gc 3] 1 tháng 3 năm 1810 – 17 tháng 10 năm 1849) là một nhà soạn nhạcnghệ sĩ dương cầm xuất chúng người Ba Lan trong thời kỳ âm nhạc Lãng mạn chủ yếu sáng tác cho độc tấu dương cầm. Ông nổi tiếng toàn thế giới như một trong những người tiên phong của thời kỳ này; một người "với chất thơ thiên tài dựa trên kỹ thuật không một ai đương thời có thể sánh bằng".[5]

Chopin sinh ra tại Żelazowa Wola, Công quốc Warszawa, và lớn lên chủ yếu ở thành phố Warsaw, sau này trở thành một phần của Vương quốc Lập hiến Ba Lan vào năm 1815. Chopin sớm nổi tiếng là thần đồng, ông được đào tạo ve âm nhạc và viết một số tác phẩm tại Warsaw trước khi rời Ba Lan vào năm 20 tuổi, chỉ vài tuần trước khi cuộc nổi dậy tháng 11 diễn ra. Chuyển tới Paris vào năm 21 tuổi, ông chỉ công diễn hơn 30 buổi chủ yếu trong không khí thân mật của các cuộc họp mặt nghệ sĩ. Ông cũng kiếm sống bằng việc bán các sáng tác và dạy học, công việc mà ông được nhiều người yêu cầu. Ông cũng kết thân với nhạc sĩ người Hungary Franz Liszt và là thần tượng của nhiều nghệ sĩ đương thời như Robert Schumann. Sau khi đính hôn bất thành với Maria Wodzińska từ năm 1836 và 1837, ông duy trì mối quan hệ nhiều trắc trở với nữ văn hào Pháp Amantine Dupin (nổi tiếng với bút danh George Sand). Chuyến đi thăm ngắn ngủi và khổ sở tại Majorca, Tây Ban Nha, cùng Sand trong giai đoạn 1838–1839 là một trong những giai đoạn sung sức nhất trong sự nghiệp sáng tác của Chopin. Trong những năm cuối đời, Jane Stirling trở thành người bảo trợ của ông. Suốt hầu hết cuộc đời, sức khỏe của Chopin không được ổn định. Ông qua đời ở Paris vào tháng 10 năm 1849, hưởng thọ 39 tuổi.

Tất cả các sáng tác của Chopin đều sử dụng đàn dương cầm. Đa số tác phẩm của ông dành cho dương cầm độc tấu (piano solo), nhưng ông cũng đã viết hai bản concerto cho dương cầm, một vài tác phẩm nhạc thính phòng, và 19 bài hát có lời bằng tiếng Ba Lan. Các sáng tác dương cầm của ông thường đòi hỏi kỹ thuật cao và mở rộng giới hạn của nhạc cụ; những màn trình diễn của ông đã được ghi nhận về sắc thái và độ nhạy cảm. Tác phẩm piano chính của ông cũng bao gồm các bản mazurka, waltz, nocturne, polonaise, ballade không lời (mà Chopin đã tạo ra như một thể loại), étude, impromptu, scherzo, preludesonata, một số tác phẩm được xuất bản chỉ sau khi ông qua đời. Những nguồn có ảnh hưởng đến phong cách sáng tác của ông là dân ca Ba lan, nhạc cổ điển truyền thống của J. S. Bach, Mozart, và Schubert, và bầu không khí của các cuộc salon ở Paris mà ông là khách mời thường xuyên. Những đổi mới của ông về phong cách, hòa âm, và hình thức âm nhạc, và sự kết hợp âm nhạc với chủ nghĩa dân tộc của ông, đã có ảnh hưởng trong suốt và sau giai đoạn hậu Lãng mạn.

Âm nhạc của Chopin, với danh tiếng của ông như là một trong những siêu sao đầu tiên của âm nhạc, với các mối liên hệ (gián tiếp) với các cuộc biến động chính trị, kèm đời sống tình cảm nổi bật và cái chết sớm của Chopin đã khiến ông trở thành biểu tượng hàng đầu của thời đại lãng mạn. Tác phẩm của ông vẫn còn phổ biến cho đến ngày nay, và ông là chủ đề của nhiều bộ phim và tiểu sử với độ trung thực lịch sử khác nhau. Những di tích của ông bao gồm viện Fryderyk Chopin, được Quốc hội Ba Lan thành lập nhằm nghiên cứu và quảng bá cuộc đời và tác phẩm của ông. Nơi đây cũng tổ chức Cuộc thi piano quốc tế Chopin, một cuộc thi danh giá dành riêng cho các tác phẩm của ông.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Đầu đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Thời thơ ấu

[sửa | sửa mã nguồn]
Nơi sinh ra Chopin tại Żelazowa Wola

Frédéric Chopin sinh ngày 1 tháng 3 năm 1810 tại Żelazowa Wola (Ba Lan), một thị trấn cách Warsaw 46 km về phía Tây, tại Công quốc Warsaw, một nhà nước Ba Lan do Napoleon thành lập. Hồ sơ rửa tội của giáo xứ, có niên đại là 23 tháng 4 năm 1810, ghi ngày sinh của ông là 22 tháng 2 năm 1810 và trích dẫn tên riêng của ông theo dạng tiếng Latin là Fridericus Franciscus (trong tiếng Ba Lan, ông là Fryderyk Franciszek).[6][7][8] Nhà soạn nhạc và gia đình ông đã sử dụng ngày sinh là 1 tháng 3,[gc 4][7] và ngày này hiện được công nhận rộng rãi là ngày sinh chính xác.[8]

Cha của Chopin, Nicolas Chopin, là một người Pháp từ Lorraine, đã di cư sang Ba Lan vào năm 1787 lúc ông còn 16 tuổi.[10][11] Nicolas dạy kèm cho trẻ em của tầng lớp quý tộc Ba Lan, và vào năm 1806 kết hôn với Justyna Krzyżanowska, một người họ hàng nghèo của Skarbeks, một trong những gia đình quý tộc mà ông đã từng tới dạy.[12] Fryderyk đã chịu phép báp têm vào Chủ nhật Phục sinh, ngày 23 tháng 4 năm 1810, trong cùng một nhà thờ nơi cha mẹ ông kết hôn, ở Brochów. Người cha đỡ đầu mười tám tuổi của ông, người mà ông được đặt tên theo, là Fryderyk Skarbek, một học trò của Nicolas Chopin.[7] Fryderyk là con thứ hai của vợ chồng này và là con trai duy nhất; ông có một người chị, Ludwika (1807–1855), và hai người em gái, Izabela (1811–1881) và Emilia (1812–1827) - có thể đã qua đời năm 14 tuổi do bệnh lao.[13][14] Nicolas luôn hướng về quê hương mới của mình, và ông kiên quyết sử dụng tiếng Ba Lan trong gia đình.[15]

Cha của Chopin, Nicolas Chopin, vẽ bởi Mieroszewski, 1829

Vào tháng 10 năm 1810, sáu tháng sau khi Chopin ra đời, gia đình chuyển đến Warsaw, nơi Nicolas làm giảng viên dạy tiếng Pháp tại Warsaw Lyceum, khi đó ở trong Lâu đài Saxon. Fryderyk sống với gia đình của mình trong nền lâu đài. Người cha chơi sáovĩ cầm;[16] người mẹ chơi piano và dạy môn này cho những đứa trẻ trong nhà nội trú, cũng là nơi nhà Chopin sinh sống.[17] Chopin có vóc người mảnh khảnh, ngay cả trong thời thơ ấu ông dễ bị ốm.[13]

Chopin có thể đã học dương cầm từ người mẹ của mình, nhưng giáo viên đầu tiên của ông từ năm 1816 đến 1821 là nghệ sĩ dương cầm người Ba Lan Wojciech Żywny.[18] Chị của ông – Ludwika – cũng theo học Żywny, và thỉnh thoảng chơi song tấu cùng ông.[19] Người ta nhanh chóng nhận ra rằng ông là một thần đồng. Năm 7 tuổi, ông đã bắt đầu biểu diễn cho công chúng và vào năm 1817, ông đã soạn hai bản polonaise cung Sol thứSi giáng trưởng.[20] Tác phẩm tiếp theo của ông, bản polonaise cung La giáng trưởng năm 1821, đề tặng cho Żywny, là bản thảo lâu đời nhất nhất còn sót lại.[18]

Vào năm 1817, Cung điện Saxon đã được thống đốc Nga của Warsaw trưng dụng để sử dụng cho mục đích quân sự, và Trường phổ thông Warsaw (Warsaw Lyceum) đã được tái lập tại Cung điện Kazimierz (ngày nay là hiệu trưởng của Đại học Warsaw). Chopin và gia đình chuyển đến một tòa nhà, vẫn còn tồn tại, nằm cạnh Cung điện Kazimierz. Trong thời gian này, đôi khi ông được mời đến Cung điện Belweder với tư cách là bạn chơi của con trai của người cai trị Vương quốc Lập hiến Ba Lan (thuộc Nga), Đại công tước Konstantin Pavlovich của Nga; ông chơi piano cho Konstantin Pavlovich và sáng tác một bản hành khúc cho ông. Julian Ursyn Niemcewicz, trong tác phẩm thơ ca kịch của mình, "Nasze Przebiegi" ("Bài diễn thuyết của chúng tôi", 1818), đã chứng thực cho sự nổi tiếng của "cậu bé Chopin".[21]

Giáo dục

[sửa | sửa mã nguồn]
Józef Elsner (sau 1853)

Từ tháng 9 năm 1823 đến năm 1826, Chopin theo học ở trường Warsaw Lyceum, nơi ông học về đàn organ từ người nhạc sĩ người Séc Wilhelm Würfel trong năm đầu tiên của mình. Vào mùa thu năm 1826, ông bắt đầu một khóa học ba năm dưới sự hướng dẫn của nhà soạn nhạc Józef Elsner tại Nhạc viện Warsaw, nơi ông học lý thuyết âm nhạc, figured bass, và sáng tác âm nhạc.[22][gc 5] Trong suốt thời gian này, ông tiếp tục sáng tác và độc tấu trong các buổi hòa nhạc và salon ở Warsaw. Ông được mời để quảng bá nhạc cụ "aeolomelodikon" (một nhạc cụ kết hợp giữa piano và đàn organ cơ học) với công chúng, và vào tháng 5 năm 1825, ông đã biểu diễn những tác phẩm ngẫu hứng của mình và một phần bản concerto của Ignaz Moscheles trên nhạc cụ này. Thành công của buổi hòa nhạc này đã dẫn đến một lời mời biểu diễn một buổi độc tấu trên một nhạc cụ tương tự (gọi là "aeolopantaleon") trước Sa hoàng Alexander I, người đang đến thăm Warsaw; Sa hoàng sau đó tặng Chopin một chiếc nhẫn kim cương. Tại một buổi hòa nhạc aeolopantaleon tiếp theo vào ngày 10 tháng 6 năm 1825, Chopin biểu diễn tác phẩm Rondo Op. 1 của ông. Đây là tác phẩm đầu tiên của ông được xuất bản thương mại và khiến ông lần đầu tiên được nhắc đến trên báo chí nước ngoài, khi tờ báo Allgemeine musikalische Zeitung của Leipzig ca ngợi màn trình diễn với "vô số ý tưởng âm nhạc" của Chopin.[23]

Từ năm 1824 đến 1828, Chopin đã dành kỳ nghỉ của mình ở ngoài Warsaw.[gc 6] Năm 1824 và 1825, tại Szafarnia, ông là khách mời của Dominik Dziewanowski, cha của một người bạn học. Ở đây, Chopin lần đầu được tiếp xúc với dân ca Ba Lan.[25] Những lá thư của ông từ Szafarnia về nhà (mà ông đặt tên là "The Szafarnia Courier"), được viết bằng tiếng Ba Lan rất hiện đại và sống động, đã làm gia đình ông thích thú với việc nhại lại các tờ báo Warsaw của họ và thể hiện tài năng văn chương của cậu bé.[26]

Năm 1827, sau khi em gái út của Chopin là Emilia qua đời, gia đình chuyển từ tòa nhà Đại học Warsaw, liền kề với Cung điện Kazimierz, đến bên kia đường từ trường đại học, ở phụ phía nam của Cung điện Krasiński trên phố Krakowskie Przedmieście,[gc 7] nơi Chopin sinh sống cho đến khi ông rời Warsaw vào năm 1830.[gc 8] Tại đây, cha mẹ anh tiếp tục điều hành nhà trọ cho học sinh nam. Bốn người nội trú tại căn hộ của cha mẹ ông đã trở thành những người thân cận với Chopin: Tytus Woyciechowski, Jan Nepomucen Białobłocki, Jan Matuszyński, và Julian Fontana. Hai người sau này sẽ trở thành một phần trong môi trường Paris của ông.[29]

Chopin kết giao với các nghệ sĩ và giới tri thức trẻ của Warsaw, bao gồm Fontana, Józef Bohdan Zaleski, và Stefan Witwicki.[30] Báo cáo cuối cùng của Nhạc viện Chopin (tháng 7 năm 1829) viết: "Chopin F., sinh viên năm thứ ba, tài năng đặc biệt, thiên tài âm nhạc."[22] Năm 1829, họa sĩ Ambroży Mieroszewski đã vẽ một bộ chân dung của các thành viên trong gia đình Chopin, bao gồm cả bức chân dung đầu tiên được biết đến của nhà soạn nhạc.[gc 9]

Những lá thư mà Chopin gửi Woyciechowski trong giai đoạn 1829–30 (khi Chopin khoảng hai mươi tuổi) có chứa những ám chỉ rõ ràng về tình dục đồng giới trong giấc mơ và về những nụ hôn được trao.

Tytus Woyciechowski

Bây giờ em sẽ đi tắm. Đừng có ôm em khi em chưa tám gội, Còn anh? Ngay cả khi em đã xức dầu thơm từ Byzantium, anh cũng sẽ không được ôm em - trừ khi ta hút nhau như nam châm. Nhưng Tự nhiên luôn có cách! Hôm nay anh sẽ mơ thấy mình đang ôm hôn em! Anh phải trả giá cho cơn ác mộng đã gây ra cho em đêm qua!

— Frédéric Chopin gửi Tytus Woyciechowski (4 tháng 9 năm 1830)[32][33]

Theo Adam Zamoyski, những cách diễn đạt như vậy “đã từng và ở mức độ nào đó vẫn là phổ biến trong tiếng Ba Lan và không mang hàm ý nào ngoài 'tình yêu'" trong những lá thư kết thúc ngày nay. "Tinh thần của thời đại, thấm nhuần phong trào Lãng mạn trong nghệ thuật và văn học, ủng hộ việc thể hiện cảm xúc cực đoan ... Mặc dù không thể loại trừ hoàn toàn, nhưng không có khả năng hai người từng là người yêu."[34] Người viết tiểu sử Chopin Alan Walker cho rằng, nếu những biểu hiện đó có thể được hiểu là mang tính chất đồng tính luyến ái, thì chúng không hơn gì một giai đoạn thoáng qua trong cuộc đời của Chopin, hoặc có thể là kết quả – theo lời của Walker – của một "sự thay đổi về tinh thần".[35] Nhà âm nhạc học Jeffrey Kallberg ghi chú rằng các khái niệm về thực hành tình dục và bản dạng giới trong thời của Chopin rất khác biệt, do đó việc diễn giải theo quan điểm hiện đại sẽ gặp nhiều vấn đề.[36] Các học giả khác tranh luận rằng đây là biểu hiện rõ ràng, hoặc tiềm ẩn, về khuynh hướng đồng tính luyến ái của Chopin.[37][38]

Có thể vào đầu năm 1829, Chopin đã gặp ca sĩ Konstancja Gładkowska và nảy sinh tình cảm sâu sắc với , mặc dù không rõ liệu ông đã trực tiếp đề cập đến vấn đề này với cô hay chưa. Trong một lá thư gửi Woyciechowski ngày 3 tháng 10 năm 1829, ông nhắc đến "người lý tưởng của mình, người mà em đã chung thủy suốt sáu tháng, dù không nói lời nào với nàng về tình cảm của mình; người mà em mơ ước, người đã truyền cảm hứng cho chương Adagio trong bản Concerto".[39] Tất cả những người viết tiểu sử của Chopin, theo sự dẫn dắt của Frederick Niecks,[40] đều đồng thuận rằng "người lý tưởng" này ám chỉ Gładkowska. Sau buổi hòa nhạc chia tay của Chopin tại Warsaw vào tháng 10 năm 1830, bao gồm bản concerto, do nhà soạn nhạc chơi, và aria của Gioachino Rossini, do Gładkowska hát, hai người trao nhẫn với nhau, và hai tuần sau, cô đã viết một số dòng tạm biệt trìu mến cho Chopin trong album của ông.[41] Sau khi Chopin rời Warsaw, ông và Gładkowska không gặp nhau và dường như họ không trao đổi thư từ.[42]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]
Chopin chơi đàn cho Antoni Radziwiłł, 1829 (tranh vẽ bởi Henryk Siemiradzki, 1887)

Du lịch và thành công trong nước

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 9 năm 1828, khi còn là sinh viên, Chopin đã đến thăm Berlin cùng nhà động vật học Feliks Jarocki, một người bạn của gia đình. Tại đây, ông thưởng thức các vở opera do Gaspare Spontini chỉ đạo và tham dự các buổi hòa nhạc của Carl Friedrich Zelter, Felix Mendelssohn và những người nổi tiếng khác. Trong lần trở về Berlin năm 1829, ông là khách mời của Hoàng tử Antoni Radziwiłł, thống đốc của Đại công quốc Posen – bản thân Radziwiłł cũng là một nhà soạn nhạc tài năng và nghệ sĩ cello đầy tham vọng. Ông đã viết tác phẩm Introduction và Polonaise brillante cung Đô trưởng cho cello và dương cầm, Op. 3 dành cho hoàng tử và cô con gái là nghệ sĩ dương cầm Wanda.[43]

Trở lại Warsaw năm đó, Chopin đã nghe Niccolò Paganini biểu diễn violin và ông sáng tác một bộ biến tấu mang tên Souvenir de Paganini. Có lẽ chính trải nghiệm này đã thúc đẩy ông viết bản Étude đầu tiên (1829–1832) nhằm khám phá khả năng của nhạc cụ của riêng mình.[44] Sau khi hoàn thành chương trình học tại Nhạc viện Warsaw, ông có buổi ra mắt tại Vienna. Ông tổ chức hai buổi hòa nhạc piano và nhận được nhiều đánh giá tích cực – ngoài ra còn có một số bình luận (theo lời của Chopin) rằng ông "quá yếu đuối đối với những người quen với việc chỉ trích các nghệ sĩ dương cầm địa phương". Trong buổi hòa nhạc đầu tiên, ông đã ra mắt tác phẩm Biến tấu trên chủ đề "Là ci darem la mano", Op. 2 (các biến tấu trên bản song ca từ vở opera Don Giovanni) của Mozart dành cho piano và dàn nhạc.[45] Ông trở lại Warsaw vào tháng 9 năm 1829,[29] nơi ông ra mắt tác phẩm Concerto cho dương cầm số 2 cung Fa thứ, Op. 21 vào ngày 17 tháng 3 năm 1830.[22]

Những thành công của Chopin với tư cách là một nhà soạn nhạc và nghệ sĩ biểu diễn đã mở ra cánh cửa đến Tây Âu cho ông, và ông lên đường vào ngày 2 tháng 11 năm 1830, theo lời của Zdzisław Jachimecki: "vào thế giới rộng lớn, không có mục tiêu rõ ràng nào được xác định, mãi mãi".[46] Cùng với Woyciechowski, ông lại lên đường đến Áo để tiếp tục đến Ý. Cuối tháng đó, tại Warsaw, Cuộc nổi dậy tháng 11 năm 1830 nổ ra, và Woyciechowski trở về Ba Lan để nhập ngũ. Chopin, giờ một mình ở Vienna, hoài niệm về quê hương, và đã viết cho một người bạn rằng "Tôi nguyền rủa khoảnh khắc tôi từ biệt [Warsaw]."[47][48] Vào tháng 9 năm 1831, khi biết tin cuộc nổi loạn đã thất bại trong chuyến đi từ Vienna đến Paris, ông đã bày tỏ nỗi đau khổ của mình trên các trang nhật ký riêng: "Ôi Chúa ơi! ... Người ở đó, vậy mà Người không trả thù!".[49] Nhật ký hiện đang ở Thư viện quốc gia Ba Lan. Jachimecki cho rằng những sự kiện này đã khiến nhà soạn nhạc trưởng thành "trở thành một nhà thơ dân tộc đầy cảm hứng, người đã linh cảm quá khứ, hiện tại và tương lai của quê hương Ba Lan".[46]

Chopin năm 25 tuổi, vẽ bởi hôn thê Maria Wodzińska, 1835

Khi rời Warsaw vào ngày 2 tháng 11 năm 1830, Chopin ban đầu có ý định đến Ý, nhưng tình hình bất ổn dữ dội ở Ý khiến nơi đó trở thành một điểm đến nguy hiểm. Lựa chọn tiếp theo của ông là Paris; những khó khăn trong việc xin thị thực từ chính quyền Nga đã khiến ông phải xin phép quá cảnh từ Pháp. Trong những năm sau đó, ông đã trích dẫn lời chứng thực trên hộ chiếu "Passeport en passant par Paris à Londres" ("Nối chuyến đến London qua Paris"), nói đùa rằng ông đến thành phố này "chỉ để trung chuyển".[50] Chopin đến Paris vào ngày 5 tháng 10 năm 1831;[51][52] ông quyết định sẽ không bao giờ trở lại Ba Lan,[53] từ đó trở thành một trong nhiều người di cư của cuộc đại di cư Ba Lan. Ở Pháp, ông sử dụng phiên bản tiếng Pháp của tên đã cho của mình, và sau khi nhận quốc tịch Pháp vào năm 1835, ông đã đi du lịch bằng hộ chiếu Pháp.[gc 10] Chopin vẫn coi những người Ba Lan lưu vong như những người bạn và người tâm giao. Ông không bao giờ cảm thấy hoàn toàn thoải mái khi nói tiếng Pháp hoặc khi coi mình là người Pháp, mặc dù cha ông là người gốc Pháp. Ông luôn coi mình là người Ba Lan, theo lời của Adam Zamoyski.[55]

Ở Paris, Chopin đã gặp nhiều nghệ sĩ và những nhân vật nổi tiếng khác và tìm được nhiều cơ hội để thành danh qua tài năng của mình. Trong những năm ở Paris, ông đã làm quen với nhiều người, bao gồm Hector Berlioz, Franz Liszt, Ferdinand Hiller, Heinrich Heine, Eugène Delacroix, Alfred de Vigny[56]Friedrich Kalkbrenner, người đã giới thiệu ông với nhà sản xuất dương cầm Camille Pleyel.[57] Đây đánh dấu khởi đầu cho một mối quan hệ lâu dài và chặt chẽ giữa nhà soạn nhạc và các nhạc cụ của Pleyel.[58] Chopin cũng đã làm quen với nhà thơ Adam Mickiewicz, hiệu trưởng của Hiệp hội Văn học Ba Lan, một số câu thơ của Mickiewicz được Chopin dùng làm bài hát.[59] Ông cũng nhiều lần là vị khách mời của Hầu tước Astolphe de Custine, một trong những người hâm mộ nhiệt thành của ông; ông chơi các tác phẩm của minh tại phòng khách của Custine.[60]

Hai người bạn Ba Lan ở Paris cũng có vai trò quan trọng trong cuộc đời Chopin ở Pháp. Một người bạn học tại Nhạc viện Warsaw, Julian Fontana, ban đầu đã cố gắng định cư tại Anh nhưng không thành; Fontana trở thành, theo lời của nhà sử học âm nhạc Jim Samson, "người hầu chung và người chép nhạc" của Chopin.[61] Albert Grzymała, người đã trở thành một nhà tài chính giàu có và là một nhân vật của xã hội ở Paris, thường đóng vai trò là cố vấn của Chopin và, theo lời của Zamoyski, "dần dần bắt đầu đảm nhiệm vai trò của một người anh trai trong cuộc đời [của Chopin]".[62]

Ngày 7 tháng 12 năm 1831, Chopin nhận được sự ủng hộ đầu tiên từ một người đương thời xuất chúng khi Robert Schumann đánh giá tác phẩm Biến tấu “Là ci Darem” (Op. 2) trong tạp chí Allgemeine musikalische Zeitung (bài viết được xuất bản đầu tiên của ông về âm nhạc) với tuyên bố: "Quý vị, hãy ngả mũ chào một thiên tài!"[63][64] Vào ngày 25 tháng 2 năm 1832, Chopin đã có buổi hòa nhạc đầu tiên ở Paris tại "salons de MM Pleyel" ở số 9 phố Cadet, thu hút sự ngưỡng mộ của công chúng. Nhà phê bình François-Joseph Fétis đã viết trong tạp chí Revue et gazette musicale: "Đây là một chàng trai trẻ ... không theo khuôn mẫu nào, đã tìm thấy, nếu không phải là một sự đổi mới hoàn toàn của âm nhạc dành cho dương cầm, ... [thì] là sự dạt dào những ý tưởng độc đáo chưa từng thấy ..."[65] Sau buổi hòa nhạc này, Chopin nhận ra rằng kỹ thuật chơi đàn phím lặng lẽ của ông không phù hợp với không gian hòa nhạc lớn. Cuối năm đó, ông được giới thiệu đến gia đình ngân hàng giàu có Rothschild; sự bảo trợ của họ đưa ông đến với các salon (các buổi tụ họp xã hội của giới quý tộc và giới tinh hoa nghệ thuật và văn học) riêng tư khác.[66] Đến cuối năm 1832, Chopin đã khẳng định được vị thế của mình trong giới tinh hoa âm nhạc Paris và giành được sự tôn trọng của những người đồng cấp như Hiller, Liszt và Berlioz. Ông không còn phụ thuộc về mặt tài chính vào cha mình nữa, và vào mùa đông năm 1832, ông bắt đầu kiếm được một khoản thu nhập kha khá từ việc xuất bản các tác phẩm của mình và dạy học dương cầm cho những sinh viên giàu có trên khắp châu Âu.[67] Ông không còn phải đối mặt với căng thẳng từ việc tổ chức hòa nhạc công cộng, điều mà ông vốn không thích.[68]

Tại Paris, Chopin hiếm khi biểu diễn trước công chúng. Trong những năm về sau, ông thường tổ chức một buổi hòa nhạc thường niên duy nhất tại Salle Pleyel, một địa điểm có sức chứa 300 người. Ông thích chơi đàn tại căn hộ riêng của mình ở Paris cho những nhóm bạn nhỏ hơn là ở các salon, nơi ông cũng thường xuyên biểu diễn. Nhà âm nhạc học Arthur Hedley đã nhận xét rằng: "Là một nghệ sĩ dương cầm, Chopin là người duy nhất có được danh tiếng ở cấp độ cao nhất dựa trên số lần xuất hiện trước công chúng tối thiểu – ít hơn 30 lần trong suốt cuộc đời mình."[69] Danh sách các nhạc sĩ tham gia một số buổi hòa nhạc của ông cho thấy sự phong phú của đời sống nghệ thuật Paris trong giai đoạn này. Các ví dụ bao gồm một buổi hòa nhạc vào ngày 23 tháng 3 năm 1833, trong đó Chopin, Liszt và Hiller đã biểu diễn một bản hòa tấu của J. S. Bach cho ba đàn dương cầm; và, vào ngày 3 tháng 3 năm 1838, một buổi hòa nhạc nơi Chopin, học trò của Chopin Adolphe Gutmann, Charles-Valentin Alkan, và giáo viên của Alkan Joseph Zimmermann biểu diễn bản chuyển soạn cho tám tay của Alkan, gồm hai chương nhạc từ Bản giao hưởng số 7 của Beethoven.[70] Chopin cũng tham gia vào quá trình sáng tác tác phẩm Hexameron của Liszt; ông viết biến thể thứ sáu (và cũng là biến thể cuối cùng) dựa trên chủ đề của Bellini. Âm nhạc của Chopin dần trở nên phổ biến hơn, và vào năm 1833, ông ký hợp đồng với Maurice Schlesinger, người đã sắp xếp để xuất bản nó không chỉ ở Pháp mà còn thông qua các mối quan hệ gia đình của ông ở Đức và Anh.[71][gc 11]

Maria Wodzińska, chân dung tự vẽ

Mùa xuân năm 1834, Chopin tham dự Liên hoan Âm nhạc vùng Hạ sông Rhin ở Aix-la-Chapelle cùng Hiller, và tại đó Chopin gặp Felix Mendelssohn. Sau lễ hội, ba người đến thăm Düsseldorf,[73] nơi Mendelssohn được bổ nhiệm làm giám đốc âm nhạc. Họ đã trải qua một ngày mà Mendelssohn miêu tả là "một ngày rất dễ chịu", chơi và thảo luận về âm nhạc trên cây đàn dương cầm của ông, và gặp Friedrich Wilhelm Schadow, giám đốc Học viện Nghệ thuật, và một số học trò lỗi lạc của ông như Lessing, Bendemann, HildebrandtSohn.[74] Năm 1835, Chopin đến Carlsbad, nơi ông dành thời gian với cha mẹ mình; đó cũng là lần cuối cùng ông gặp họ.[75] Trên đường trở về Paris, ông gặp lại những người bạn cũ từ Warsaw, gia đình Wodziński, con trai và con gái của họ, trong số đó có Maria, người mà ông thỉnh thoảng dạy piano ở Ba Lan.[76] Cuộc gặp gỡ này đã thúc đẩy ông ở lại Dresden trong hai tuần, mặc dù trước đó ông định đi qua Leipzig để về Paris.[77] Bức chân dung của cô gái 16 tuổi về nhà soạn nhạc đã được coi là một trong những bức chân dung giống Chopin nhất, cùng với bức chân dung của Delacroix.[78] Vào tháng 10, Chopin cuối cùng đến Leipzig, nơi ông gặp Schumann, Clara Wieck, và Mendelssohn, người tổ chức cho ông một buổi biểu diễn tác phẩm Oratorio St. Paul của mình, và coi ông là "một nhạc sĩ hoàn hảo".[79] Vào tháng 7 năm 1836, Chopin đến MarienbadDresden để ở cùng gia đình Wodziński, và vào tháng 9, ông cầu hôn Maria, người mẹ của bà là Nữ bá tước Wodzińska đã chấp thuận về nguyên tắc. Chopin tiếp tục đến Leipzig, nơi ông tặng Schumann bản Ballade cung Sol thứ.[80] Vào cuối năm 1836, ông gửi cho Maria một album nhạc trong đó Ludwika – chị gái ông – đã ghi chú 7 bài hát của ông, và bản Nocturne cung Đô thăng thứ, Op. 27, số 1 được viết năm 1835.[81] Lời cảm ơn nhẹ nhàng mà ông nhận được từ Maria hóa ra lại là lá thư cuối cùng ông nhận được từ bà.[82] Chopin đặt những lá thư ông nhận được từ Maria và mẹ bà vào một chiếc phong bì lớn, viết lên đó những lời "Nỗi bất hạnh của tôi" ("Moja bieda"); ông giữ tập thư, như kỷ vật về mối tình thứ hai của mình, trong ngăn kéo bàn làm việc cho đến cuối đời.[81][gc 12]


Franz Liszt

[sửa | sửa mã nguồn]
Franz Liszt, bởi Kriehuber, 1838

Mặc dù không rõ thời điểm chính xác Chopin lần đầu gặp Franz Liszt sau khi đến Paris, nhưng vào ngày 12 tháng 12 năm 1831, ông đã đề cập trong một lá thư gửi cho người bạn Woyciechowski rằng "Em đã gặp Rossini, Cherubini, Baillot, v.v. – cả Kalkbrenner nữa. Anh sẽ không tin được là em tò mò đến thế nào về Herz, Liszt, Hiller, v.v."[84] Liszt đã có mặt tại buổi ra mắt của Chopin tại Paris vào ngày 26 tháng 2 năm 1832 tại Salle Pleyel; ông nhận xét như sau:“Những tràng pháo tay nồng nhiệt nhất cũng không đủ cho thứ tài năng đang mở ra kỷ nguyên mới của cảm xúc thi ca và trình bày những cách tân đáng mừng trong cốt lõi nghệ thuật của anh.”[85][86]

Hai người trở thành bạn và sống gần nhau trong nhiều năm ở Paris, Chopin ở số 38 Rue de la Chaussée-d'Antin, còn Liszt ở Hôtel de France trên Rue Laffitte, cách Chopin vài dãy nhà.[87] Họ biểu diễn cùng nhau 7 lần trong khoảng thời gian từ năm 1833 đến năm 1841. Lần biểu diễn đầu tiên là ngày 2 tháng 4 năm 1833 tại một buổi hòa nhạc từ thiện do Hector Berlioz tổ chức cho người vợ là một nữ diễn viên Shakespeare bị phá sản của ông Harriet Smithson, trong buổi hòa nhạc đó, họ chơi bản Sonata cung Fa thứ của George Onslow dành cho 2 dương cầm. Những lần xuất hiện chung về sau bao gồm một buổi hòa nhạc từ thiện cho Hiệp hội từ thiện của phụ nữ Ba Lan tại Paris. Lần cuối cùng họ xuất hiện trước công chúng là tại một buổi hòa nhạc từ thiện khai trương tượng đài Beethoven ở Bonn, được tổ chức tại Salle Pleyel và Nhạc viện Paris vào ngày 25 và 26 tháng 4 năm 1841.[85]

Mặc dù cả hai thể hiện sự tôn trọng và ngưỡng mộ lớn dành cho nhau, nhưng tình bạn giữa hai người lại không mấy dễ dàng và mang một số đặc điểm của mối quan hệ yêu-ghét. Harold C. Schonberg tin rằng Chopin có "một chút ghen tị và thù hận" đối với sự xuất chúng của Liszt khi biểu diễn dương cầm,[87] và những người khác cũng lập luận rằng ông đã trở nên say mê với sự kịch tính, nghệ thuật trình diễn và thành công của Liszt.[88] Liszt là người được Chopin đề tặng bản Étude Op. 10, màn trình diễn của Liszt đã thôi thúc nhà soạn nhạc viết thư cho Hiller, nói rằng “tôi muốn đánh cắp cách anh ta chơi étude của tôi."[89] Tuy nhiên, Chopin tỏ ra khó chịu vào năm 1843 khi Liszt tự ý bổ sung nhiều chi tiết tô điểm phức tạp khi biểu diễn một trong những bản nocturne của mình, khi đó Chopin nhận xét rằng ông nên chơi bản nhạc như đã viết hoặc không chơi nó, buộc Liszt phải xin lỗi. Hầu hết những người viết tiểu sử của Chopin cho rằng sau đó hai người không còn liên quan gì đến nhau nữa, mặc dù trong những bức thư có niên đại muộn nhất là năm 1848, ông vẫn gọi Liszt là "người bạn của tôi".[87] Một số nhà bình luận chỉ ra những sự kiện trong cuộc sống lãng mạn của hai người đàn ông đã dẫn đến rạn nứt giữa họ; có một số lời khẳng định rằng Liszt đã thể hiện sự ghen tuông với sự ám ảnh của người tình Marie d'Agoult với Chopin, trong khi những người khác tin rằng Chopin đã trở nên lo lắng về mối quan hệ ngày càng thân thiết giữa Liszt và George Sand.[85]

Chân dung Frédéric François Chopin của họa sĩ Eugène Delacroix năm 1838. Ban đầu bức hình này là một nửa của chân dung đúp giữa Chopin và George Sand.

Cái chết và tang lễ

[sửa | sửa mã nguồn]
Chopin on His Deathbed (dịch: ‘’Chopin trên giường bệnh’’), tranh sơn dầu của Teofil Kwiatkowski, 1849, ủy quyền bởi Jane Stirling. Từ trái sang: Aleksander Jełowicki; chị của Chopin Ludwika; Marcelina Czartoryska; Wojciech Grzymała; Teofil Kwiatkowski
“Mặt nạ thần chết” của Chopin, bởi Clésinger (Ảnh: Jack Gibbons)
Tấm biển tại Hôtel Baudard de Saint-James, tưởng nhớ cái chết của Chopin tại khách sạn này

Với sức khỏe ngày càng xấu đi, Chopin mong muốn có một thành viên gia đình bên cạnh. Vào tháng 6 năm 1849, chị gái ông là Ludwika đã đến Paris cùng chồng và con gái, và vào tháng 9, ông đã thuê một căn hộ tại Hôtel Baudard de Saint-James trên Place Vendôme với khoản vay từ Jane Stirling.[90] Sau ngày 15 tháng 10, khi tình trạng của ông chuyển biến xấu đi rõ rệt, chỉ còn một số ít bạn thân nhất ở lại với ông. Viardot đã mỉa mai rằng "tất cả các quý bà Paris sang trọng đều coi việc ngất xỉu trong phòng của ông là de rigueur".[91]

Một số người bạn chơi nhạc theo yêu cầu của ông; trong số đó, Potocka hát và Franchomme chơi đàn cello.[92] Chopin đã để lại những bản ghi chú còn dang dở của mình về một phương pháp dạy dương cầm mang tên Projet de méthode (dịch: Phác thảo về phương pháp piano”) cho Alkan để hoàn thiện.[93] Vào ngày 17 tháng 10, sau nửa đêm, bác sĩ đã cúi xuống bên ông và hỏi liệu ông có đau đớn nhiều không. Ông trả lời: "Không còn nữa". Ông qua đời vài phút trước 2 giờ sáng, hưởng thọ 39 tuổi. Những người có mặt tại giường bệnh dường như là chị gái Ludwika, Cha. Aleksander Jełowicki,[94] Công chúa Marcelina Czartoryska, Solange, con gái của Sand và Thomas Albrecht, bạn thân của ông. Sáng hôm đó, chồng của Solange là Clésinger đã làm mặt nạ tử thần của Chopin và một bản đúc hình tay trái của ông.[95]

Lễ tang, tổ chức tại Nhà thờ Madeleine ở Paris, đã bị hoãn lại gần hai tuần cho đến ngày 30 tháng 10. Chỉ những người có vé mới được vào, vì dự kiến có thể nhiều ngườ sẽ tham dự.[96] Hơn 3.000 người đã đến mà không có giấy mời, từ xa như London, Berlin và Vienna, và họ không được phép vào.[97]

Bản Requiem của Mozart được hát tại đám tang; các nghệ sĩ độc tấu bao gồm giọng soprano Jeanne-Anaïs Castellan, giọng mezzo-soprano Pauline Viardot, giọng tenor Alexis Dupont, và giọng bass Luigi Lablache; Prelude số 4 cung Mi thứ và số 6 cung Si thứ của Chopin cũng được chơi tại đó. Người chơi đàn organ là Alfred Lefébure-Wély. Đoàn rước tang đến Nghĩa trang Père Lachaise, có sự tham gia của chị gái Chopin là Ludwika, do Hoàng tử lớn tuổi Adam Czartoryski dẫn đầu. Những người hộ tang gồm Delacroix, Franchomme và Camille Pleyel.[98] Bản Hành khúc tang lễ từ Sonata cho dương cầm số 2 của Chopin được chuyển soạn cho dàn nhạc bởi Napoléon Henri Reber được chơi bên mộ Chopin.[99][100]

Bia mộ của Chopin, có hình muse âm nhạc Euterpe đang khóc trước cây đàn lia bị hư, được thiết kế và điêu khắc bởi Clésinger và được lắp đặt vào ngày giỗ của ông vào năm 1850. Tượng đài trị giá 4.500 franc, được bảo hiểm bởi Jane Stirling, người cũng đã trả tiền để đưa Ludwika về Warsaw.[101] Theo yêu cầu của Chopin, Ludwika đã lấy tim của Frédéric Chopin (đã được bác sĩ Jean Cruveilhier của ông lấy ra và bảo quản trong bình rượu) trở về Ba Lan vào năm 1850.[102][103][gc 13] Bà cũng lấy một bộ sưu tập gồm 200 bức thư mà Sand gửi Chopin; sau năm 1851 những thứ này được trả lại cho Sand và cô đã tiêu hủy chúng.[106]

Căn bệnh và nguyên nhân cái chết của Chopin đã trở thành chủ đề được tranh luận. Giấy chứng tử của ông ghi nguyên nhân cái chết là bệnh lao, và bác sĩ của ông– Cruveilhier –là chuyên gia hàng đầu của Pháp về căn bệnh này vào thời điểm đó.[107] Các khả năng khác được đưa ra bao gồm xơ nang,[108] xơ gan, và thiếu alpha-1 antitrypsin.[109][110] Một cuộc kiểm tra trực quan trái tim được bảo quản của Chopin (hũ không được mở), được tiến hành vào năm 2014 và lần đầu tiên được công bố trên Tạp chí Y học Hoa Kỳ vào năm 2017, cho rằng nguyên nhân gây ra cái chết của ông có thể là một trường hợp viêm màng ngoài tim hiếm gặp do biến chứng của bệnh lao mãn tính.[111][112][113]


Âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Tổng quan

[sửa | sửa mã nguồn]

Hơn 230 tác phẩm của Chopin còn được lưu giữ cho đến ngày nay; một số tác phẩm từ thời thơ ấu đã bị mất. Tất cả các tác phẩm được biết đến của ông đều sử dụng đàn piano, và chỉ một số ít là các tác phẩm như hòa tấu dương cầm, bài hát hoặc nhạc thính phòng.[114]

Tất cả các sáng tác của Chopin đều dành cho đàn piano. Hầu hết chúng đều là tác phẩm độc tấu, ngoài ra còn có hai concerto cho piano, vài hòa nhạc và vài sáng tác theo âm hưởng nhạc Ba Lan truyền thống. Phong cách âm nhạc và trình diễn của ông đòi hỏi tính cá nhân và kỹ thuật điêu luyện, và những buổi trình diễn của ông vẫn luôn được nhớ tới bởi sự đa dạng và tinh tế. Ông cũng là người khai sáng ra khái niệm ballad hòa tấu trong nhạc cổ điển. Các tác phẩm của Chopin bao gồm nhiều thể loại, từ mazurka, waltz, nocturne, polonaise, étude, impromptu, cho tới scherzo, prelude và sonata, trong đó nhiều tác phẩm được công bố sau khi ông qua đời. Giai điệu của Chopin mang nhiều âm hưởng từ âm nhạc Ba Lan, cũng như từ J. S. Bach, Mozart hay Schubert, ngoài ra cả không khí ở thành phố Paris nơi ông gắn bó. Những cách tân của ông trong hình thức, hòa âm, biến tấu cùng với những hoạt động gắn liền với chủ nghĩa dân tộc đã ảnh hưởng rất lớn tới thời kỳ âm nhạc Lãng mạn.

Ngày 30 tháng 1 năm 2018, Viện Fryderyk Chopin thông báo tổ chức này sẽ đưa toàn bộ sưu tập (gần 40.000 kỷ vật của Chopin, nằm trong bộ sưu tập Di sản thế giới của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc) của Frédéric François Chopin lên Internet và đến năm 2020 và công chúng có thể truy cập miễn phí. Thêm nữa, bất cứ ai cũng có thể tải các bản thu âm từ các cuộc thi piano Chopin toàn cầu do Viện tổ chức ngoài việc nghiên cứu và quảng bá tác phẩm của nhà soạn nhạc trên khắp thế giới. Người truy cập không chỉ có thể tìm kiếm và tải các bản nhạc hoặc trích đoạn mà còn có được các phân tích đa dạng về nhịp điệu, hòa âm, giai điệu và nhiều khía cạnh khác của âm nhạc.[115]

Nhạc cụ

[sửa | sửa mã nguồn]

Khi sống ở Warsaw, Chopin đã sáng tác và chơi trên một cây đàn piano của nhà chế tạo đàn Fryderyk Buchholtz.[116][gc 14] Sau đó, khi chuyển đến Paris, Chopin đã mua một cây đàn của Pleyel. Ông đánh giá những cây đàn piano của Pleyel là "non plus ultra" (không có gì tốt hơn).[119] Là bạn với nhà soạn nhạc ở Paris, Franz Liszt đã mô tả âm thanh của cây đàn piano này là "sự giao thoa giữa pha lê và nước".[120]Trong các bức thư của mình Chopin viết rằng ông có ba cây đàn piano tại căn nhà ở London: "Tôi có một phòng khách lớn với ba cây đàn piano, một Pleyel, một Broadwood và một Erard."[119]

Trong văn học, sân khấu, điện ảnh và truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Mộ Chopin tại nghĩa trang Père Lachaise, Pháp

Chopin xuất hiện rộng rãi trong văn học Ba Lan, cả trong các nghiên cứu phê bình nghiêm túc và trong các tác phẩm hư cấu. Biểu hiện sớm nhất có lẽ là một bài sonnet năm 1830 về Chopin của Leon Ulrich. Các nhà văn Pháp viết về Chopin (ngoài Sand) bao gồm Marcel Proust and André Gide, và ông cũng đã xuất hiện trong các tác phẩm của Gottfried BennBoris Pasternak.[121] Có rất nhiều tiểu sử về Chopin bằng tiếng Anh (xem phần thư mục để biết thêm thông tin).

Có lẽ tác phẩm hư cấu đầu tiên dựa trên Chopin là một phiên bản opera kỳ ảo về một số sự kiện của ông: Chopin (1901). Bài nhạc – dựa trên chính tác phẩm của Chopin – được Giacomo Orefice biên soạn, với phần lời của Angiolo Orvieto [it].[122][123]

Cuộc đời của Chopin đã được chuyển thể thành nhiều bộ phim hư cấu.[124] Ngay từ năm 1919, mối quan hệ của Chopin với ba người phụ nữ – người yêu thời trẻ Mariolka, tiếp theo là ca sĩ người Ba Lan Sonja Radkowska, và sau đó là George Sand – đã được miêu tả trong bộ phim câm của Đức Nocturno der Liebe (1919).[125] Bộ phim tiểu sử năm 1945 A Song to Remember đã mang về cho diễn viên đóng vai Chopin Cornel Wilde một đề cử của Giải thưởng Viện hàn lâm cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất. Các tác phẩm điện ảnh khác bao gồm La valse de l'adieu (1928) của Henry Roussel, với Pierre Blanchar trong vai Chopin; Impromptu (1991), với sự tham gia của Hugh Grant trong vai Chopin; La note bleue (1991); và Chopin: Desire for Love (2002).[126]

Cuộc đời của Chopin được đề cập trong bộ phim tài liệu năm 1999 của BBC năm 1999 thực hiện bởi András SchiffMischa Scorer mang tên Omnibus,[127] trong một bộ phim tài liệu năm 2010 thực hiện bởi Angelo Bozzolini và Roberto Prosseda cho truyền hình Ý,[128] và trong một bộ phim tài liệu của BBC Four mang tên Chopin – The Women Behind The Music (tạm dịch: Chopin - Người đàn bà đằng sau âm nhạc) (2010).[129]

  1. ^ UK: /ˈʃɒpæ̃, ˈʃɒpæn/, US: /ˈʃpæn, ʃˈpæn/;[1]tiếng Pháp: [ frɨˈdɛrɨk fraɲˈt͡ɕiʂɛk ˈʂɔpɛn].
  2. ^ tiếng Ba Lan: [frɨˈdɛrɨk franˈtɕiʂɛk ˈʂɔpɛn].
  3. ^ Mặc dù không ai trong gia đình Chopin đánh vần họ của họ theo tiếng Ba Lan Szopen,[2] cách viết sau này đã được nhiều người Ba Lan sử dụng kể từ thời của ông, kể cả những nhà thơ cùng thời với ông như Juliusz Słowacki[3]Cyprian Norwid.[4]
  4. ^ Theo bức thư ngày 16 tháng 1 năm 1833 của Chopin gửi chủ tịch của Hội Văn học Ba Lan ở Paris, ông "sinh ngày 1 tháng 3 năm 1810 tại làng Żelazowa Wola thuộc Tỉnh Mazowsze".[9]
  5. ^ Nhạc viện có mối quan hệ với Đại học Warsaw; vì thế Chopin được coi là một trong những cựu sinh viên của trường
  6. ^ Tại Szafarnia (năm 1824 – có lẽ là chuyến đi xa nhà một mình đầu tiên của ông – và năm 1825), Duszniki (1826), Pomerania (1827), và Sanniki (1828). [24]
  7. ^ Cung điện Krasiński, giờ được biết đến là Cung điện Czapski, hiện giờ là Học viện Mỹ thuật Warsaw. Năm 1960, Phòng khách gia đình Chopin (salonik Chopinów), một căn phòng trước đây là nơi ở của gia đình Chopin trong Cung điện, đã được mở cửa như một bảo tàng.[27]
  8. ^ Một cư dân sống ở đây từ năm 1837 đến 1839 ở đây, nghệ sĩ-nhà thơ Cyprian Norwid, sau này đã viết một bài thơ, "Cây đàn dương cầm của Chopin [pl]", về việc nhạc cụ của ông bị quân đội Nga ném ra ngoài trong cuộc khởi nghĩa tháng 1 năm 1863. [28]
  9. ^ Bản gốc đã bị thất lạc trong Thế chiến II và chỉ còn những bức ảnh.[31]
  10. ^ Hộ chiếu Pháp mà Chopin sử dụng được hiển thị tại trang web "Chopin – musicien français"[54]
  11. ^ Để biết thêm về mạng lưới quốc tế của Schlesinger, xem Conway(2012), trang 185–187, 238–239[72]
  12. ^ Một bức ảnh của tập thư vẫn còn sót lại, mặc dù bản gốc có thể đã bị thất lạc trong Thế chiến thứ II.[83]
  13. ^ Năm 1879, trái tim được phong ấn trong một cây cột của Nhà thờ Holy Cross, phía sau tấm bia được chạm khắc bởi Leonard Marconi.[104] Trong cuộc xâm lược Warsaw của Đức trong Thế chiến Thứ hai, trái tim đã được mang đi để đảm bảo an toàn và được giữ trong tay sĩ quan người Đức, Erich von dem Bach-Zelewski. Trái tim sau đó được trả lại cho chính quyền nhà thờ, nhưng việc đưa nó trở lại nơi an nghỉ cũ được cho là vẫn còn nhiều rủi ro. Nó được đưa đến thị trấn Milanówek, nơi quan tài được mở ra và trái tim được khám xét (kích thước lớn của trái tim đã được ghi nhận). Trái tim được cất giữ tại Nhà thờ St. Hedwig. Vào ngày 17 tháng 10 năm 1945, nhân kỷ niệm 96 năm ngày mất của Chopin, trái tim của ông được đưa về vị trí ban đầu là Nhà thờ Holy Cross [105]
  14. ^ Vào năm 2018, bản sao cây đàn Buchholtz của Chopin do Paul McNulty chế tạo ra lần đầu tiên được trình diễn trước công chúng tại Teatr Wielki - Nhà hát Opera Quốc gia Ba Lan[117] và được Viện Chopin Warsaw sử dụng cho Cuộc thi Chopin Quốc tế đầu tiên trên các nhạc cụ thời xưa.[118]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Wells, John C. (2008). Longman Pronunciation Dictionary [Từ điển phát âm Longman] (ấn bản thứ 3). Longman. ISBN 978-1-4058-8118-0.
  2. ^ Walker 2022, tr. 289.
  3. ^ Tomaszewski, Mieczysław (2003–2018). “Juliusz Słowacki”. chopin.nifc.pl (bằng tiếng Ba Lan). Viện Fryderyk Chopin. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2021.
  4. ^ Thơ Cây đàn dương cầm của Chopin [pl]
  5. ^ Rosen 1995, tr. 284.
  6. ^ Hedley & Brown 1980, tr. 292.
  7. ^ a b c Zamoyski 2010, tr. 4–5.
  8. ^ a b Cholmondeley 1998.
  9. ^ Chopin 1962, tr. 116.
  10. ^ Zamoyski 2010, tr. 3.
  11. ^ Walker 2022, tr. 43.
  12. ^ Samson 2001, §1 ¶1.
  13. ^ a b Zamoyski 2010, tr. 7.
  14. ^ Mysłakowski, Piotr; Sikorsky, Andrzej. “Emilia Chopin”. Viện Fryderyk Chopin. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2021.
  15. ^ Zamoyski 2010, tr. 6.
  16. ^ Zamoyski 2010, tr. 5-6.
  17. ^ Szulc 1988, tr. 41-42.
  18. ^ a b Samson 2001, §1 ¶3.
  19. ^ Samson 1996, tr. 8.
  20. ^ Walker 2022, tr. 70–74.
  21. ^ Zamoyski 2010, tr. 12–13.
  22. ^ a b c Samson 2001, §1 ¶5.
  23. ^ Walker 2022, tr. 109–110.
  24. ^ Szklener 2010, tr. 8.
  25. ^ Samson 2001, §1 ¶2.
  26. ^ Zamoyski 2010, tr. 19–20.
  27. ^ Mieleszko 1971.
  28. ^ Jakubowski 1979, tr. 514–515.
  29. ^ a b Zamoyski 2010, tr. 43.
  30. ^ Zamoyski 2010, tr. 43–45.
  31. ^ Kuhnke 2010.
  32. ^ Chopin 1988, tr. 102.
  33. ^ Walker 2022, tr. 192.
  34. ^ Zamoyski 2010, tr. 56–57.
  35. ^ Walker 2022, tr. 190–91.
  36. ^ Kallberg 2006, tr. 66.
  37. ^ Pizà, Antoni (13 tháng 1 năm 2022). “Overture: Love is a Pink Cake or Queering Chopin in Times of Homophobia” [Khúc dạo đầu: Tình yêu là chiếc bánh hồng hay Chopin là queer trong thời đại kỳ thị người đồng tính]. Itamar. Revista de investigación musical: Territorios para el arte. ISSN 2386-8260. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2022.
  38. ^ Weber, Moritz (13 tháng 1 năm 2022). “AKT I / ACTO I / ACT I Männer / Hombres / Men Chopins Männer / Los hombres de Chopin / Chopin's Men”. Itamar. Revista de investigación musical: Territorios para el arte (bằng tiếng Đức). ISSN 2386-8260. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2022.
  39. ^ Walker 2022, tr. 187–189.
  40. ^ Niecks 1902, tr. 125.
  41. ^ Walker 2022, tr. 209–13.
  42. ^ Walker 2022, tr. 213–14.
  43. ^ Zamoyski 2010, tr. 45.
  44. ^ Zamoyski 2010, tr. 35.
  45. ^ Zamoyski 2010, tr. 37–39.
  46. ^ a b Jachimecki 1937, tr. 422.
  47. ^ Samson 2001, §2 ¶1.
  48. ^ Walker 2022, tr. 219.
  49. ^ Samson 2001, §2 ¶3.
  50. ^ Walker 2022, tr. 241.
  51. ^ Helman, Zofia; Wróblewska-Straus, Hanna (2007). “The Date of Chopin's Arrival in Paris” [Ngày Chopin đến Paris]. Musicology Today. Sciendo. 4: 95–103. ISSN 1734-1663.
  52. ^ Walker 2022, tr. 251.
  53. ^ Samson 2001, §1 ¶6.
  54. ^ Langavant, Emmanuel. “Passeport français de Chopin” [Hộ chiếu Pháp của Chopin]. Chopin – musicien français website. Truy cập 28 tháng 3 năm 2021.
  55. ^ Zamoyski 2010, tr. 129.
  56. ^ Zamoyski 2010, tr. 107.
  57. ^ Walker 2022, tr. 259.
  58. ^ Eigeldinger 2001, rải rác.
  59. ^ Zamoyski 2010, tr. 29.
  60. ^ Walker 2022, tr. 347, 355, 419.
  61. ^ Samson 2001, §3 ¶2.
  62. ^ Zamoyski 2010, tr. 107–108.
  63. ^ Schumann 1988, tr. 15–17.
  64. ^ Walker 2022, tr. 150.
  65. ^ Walker 2022, tr. 266.
  66. ^ Hedley & Plantinga 2024, §1 ¶7.
  67. ^ Samson 2001, §2, ¶4–5.
  68. ^ Hedley & Plantinga 2024, §1 ¶6.
  69. ^ Hedley & Plantinga 2024, tr. 263–264.
  70. ^ Conway 2012, tr. 226 & note 9.
  71. ^ Samson 2001, §2 ¶5.
  72. ^ Conway 2012.
  73. ^ Walker 2022, tr. 323.
  74. ^ Niecks 1902, tập 1, tr. 274.
  75. ^ Walker 2022, tr. 328.
  76. ^ Walker 2022, tr. 322–323.
  77. ^ Zamoyski 2010, tr. 118–19.
  78. ^ Szulc 1998, tr. 137.
  79. ^ Zamoyski 2010, tr. 119–120.
  80. ^ Zamoyski 2010, tr. 126–127.
  81. ^ a b Jachimecki 1937, tr. 423.
  82. ^ Chopin 1962, tr. 144.
  83. ^ Walker 2022, tr. 352.
  84. ^ Hall-Swadley 2011, tr. 31.
  85. ^ a b c Hall-Swadley 2011, tr. 32.
  86. ^ Walker 2022, tr. 267.
  87. ^ a b c Schonberg 1987, tr. 151.
  88. ^ Hall-Swadley 2011, tr. 33.
  89. ^ Walker 2022, tr. 369.
  90. ^ Zamoyski 2010, tr. 288.
  91. ^ Samson 2001, §5 ¶4.
  92. ^ Zamoyski 2010, tr. 292–293.
  93. ^ Walker 2022, tr. 285.
  94. ^ Jełowicki, Aleksander. “Letter to Ksawera Grocholska” [Thư gửi Ksawera Grocholska]. chopin.nifc.pl. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2022.
  95. ^ Zamoyski 2010, tr. 293.
  96. ^ Zamoyski 2010, tr. 294.
  97. ^ Niecks 1902, tập 2, tr. 323-324.
  98. ^ Walker 2022, tr. 721–724.
  99. ^ Atwood 1999, tr. 412–413, bản dịch của "Đám tang Frédéric Chopin", trong Revue et gazette musicale, ngày 4 tháng 11 năm 1847.
  100. ^ Walker 2022, tr. 722.
  101. ^ Walker 2022, tr. 725–726.
  102. ^ Samson 1996, tr. 193.
  103. ^ Walker 2022, tr. 718–719.
  104. ^ “Holy Cross Church (Kościół Św. Krzyża)” [Nhà thờ Holy Cross (Kościół Św. Krzyża)]. In Your Pocket. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2024.
  105. ^ Ross 2014.
  106. ^ Walker 2022, tr. 734–736.
  107. ^ Zamoyski 2010, tr. 286.
  108. ^ Majka, Gozdzik & Witt 2003, tr. 77.
  109. ^ Kuzemko 1994, tr. 771.
  110. ^ Kubba & Young 1998.
  111. ^ Witt, Marchwica & Dobosz 2018.
  112. ^ McKie 2017.
  113. ^ Pruszewicz 2014.
  114. ^ Hedley & Brown 1980, tr. 298.
  115. ^ “Ba Lan số hóa các tác phẩm của nhà soạn nhạc Chopin”.
  116. ^ Majorek, Czeslaw; Zasztoft, Leszek (1991). “Popularyzacja nauki w Krolestwie Polskim w latach 1864-1905” [Phổ cập khoa học ở Vương quốc Ba Lan những năm 1864-1905]. History of Education Quarterly. 31 (1): 109. doi:10.2307/368794. ISSN 0018-2680. JSTOR 368794.
  117. ^ “Fortepiany Chopina… Wyjątkowa wystawa instrumentów z kolekcji Narodowego Instytutu Fryderyka Chopina” [Đàn piano của Chopin... Triển lãm độc đáo về các nhạc cụ từ bộ sưu tập của Viện Quốc gia Fryderyk Chopin]. muzeum.nifc.pl. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2024.
  118. ^ Moran, Michael (31 tháng 1 năm 2018). “1st International Chopin Competition on Period Instruments. 2–14 September 2018” [Cuộc thi Chopin quốc tế lần thứ I trên nhạc cụ thời xưa. 2–14 tháng 9 năm 2018]. Classical Music Festivals and Competitions in Poland and Germany - with occasional unrelated detours (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2024.
  119. ^ a b Audéon 2016.
  120. ^ Liszt, Franz; Cook, M. Walker (1 tháng 4 năm 1877). “Life of Chopin” [Cuộc đời của Chopin]. The Musical Times and Singing Class Circular. 18 (410): 184. doi:10.2307/3351980. ISSN 0958-8434. JSTOR 3351980.
  121. ^ Hejmej, Andrzej. “Chopin and his music in literature” [Chopin và âm nhạc của ông trong văn học]. chopin.pl. Stoeckle, Philip biên dịch. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2024.
  122. ^ Ashbrook 2002.
  123. ^ Lanza 2001.
  124. ^ “Fryderyk Chopin – Information Centre – Filmography” [Chopin và âm nhạc của ông trong văn học]. en.chopin.nifc.pl (bằng tiếng Anh). chopin.nifc.pl. 2003–2018. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2020.
  125. ^ Soister 2002, tr. 62.
  126. ^ Sowińska, Iwona. “Chopin goes to the movies” [Chopin trong các bộ phim]. chopin.pl (bằng tiếng Anh). Stoeckle, Philip biên dịch. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2024. Trang web cung cấp thông tin chi tiết về nhiều bộ phim khác sử dụng hình ảnh của Chopin
  127. ^ Michael Church (13 tháng 5 năm 1999). “An exile from the modern world” [Một cuộc lưu đày khỏi thế giới hiện đại]. The Independent. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2018.
  128. ^ Thompson 2016, tr. 600–601.
  129. ^ “Chopin – The Women Behind The Music” [Chopin - Người đàn bà đằng sau âm nhạc]. BBC. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2021.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Tổng phổ

  • Chopin: the Poet of the Piano (Chopin: nhà thơ dương cầm) biên soạn bằng tiếng Anh, bao gồm tiểu sử, hình ảnh, danh mục tác phẩm và đề tặng, file nhạc mp3 và bản nhạc pdf của toàn bộ các tác phẩm, tiểu sử danh sách các nhà dương cầm nổi tiếng chơi Chopin, các liên kết về Chopin, đố nhạc Chopin, trắc nghiệm về cuộc đời và tác phẩm của Chopin, diễn đàn, hỏi đáp, bình chọn tác phẩm yêu thích...