Nothing Special   »   [go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

FA Women's Championship

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
FA Women's Championship
Mùa giải hiện tại:
FA WSL 2016
Thành lập2014
Quốc giaAnh
Số đội10
Cấp độ trong
hệ thống
2
Thăng hạng lênFA WSL 1
Xuống hạng đếnWPL Northern Division
WPL Southern Division
Cúp trong nướcFA Women's Cup
Cúp liên đoànFA WSL Cup
Đội vô địch hiện tạiManchester City
(2016)
Đội vô địch nhiều nhấtReading, Sunderland (1)
Đối tác truyền hìnhBT Sport
Trang webwww.fawsl.com

Football Association Women's Super League 2 (FA WSL 2) là hạng đấu cao thứ hai trong hệ thống bóng đá nữ tại Anh. Đây là một trong hai hạng đấu cấu thành nên Football Association Women's Super League với hạng còn lại là WSL 1. Giải bắt đầu được tổ chức từ năm 2014 và có 10 đội thi đấu. Hiện các đội WSL 2 không phải xuống chơi ở FA Women's Premier League. Nhưng mỗi mùa có hai đội lên chơi tại FA WSL 1.[1][2]

Tính tới mùa giải 2016, WSL 2 diễn ra từ tháng 4 tới tháng 10 trong một năm dương lịch. Giải dự kiến chuyển sang thi đấu trong cả mùa đông từ mùa giải 2017–18.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào mùa giải 2014 WSL 2 được thành lập với 9 đội mới và một đội xuống từ WSL 1. WSL 1 giữ nguyên 8 đội, trong đó có một đội mới, còn WSL 2 có 10 đội.[3][4][5][6] Suất chơi tại WSL 1 được trao cho Manchester City. Doncaster Rovers Belles xuống đá ở WSL 2, trong khi 9 đội mới gồm: London Bees; Durham; Aston Villa; Millwall Lionesses; Yeovil Town; Reading; Sunderland; Watford; và Oxford United.[7] Doncaster Belles khiếu nại về quyết định của FA nhưng bất thành.[8]

Cuối năm 2014, FA WSL thông báo dự án tăng số đội WSL 1 từ 8 lên 10. Có hai đội WSL 2 được lên hạng vào cuối mùa 2015, còn một đội từ WSL 1 xuống chơi ở WSL 2.[1][9] Ngoài ra lần đầu tiên có một đội thuộc FA Women's Premier League được lên chơi tại WSL 2.[10]

Điều này dẫn tới WSL 1 sẽ có 9 đội còn WSL 2 có 10 đội trong mùa giải 2016. Quy trình này lặp lại sau khi mùa 2016 kết thúc, WSL 1 và 2 sẽ cùng có 10 đội ở mùa 2017-18.[9]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]
Câu lạc bộ WSL 2 mùa 2016
Tên Thành lập Thành phố Sân nhà Sức chứa*
Aston Villa 1973 Sutton Coldfield Central Ground 2.000
Bristol City 1998 Filton Sân vận động Stoke Gifford 1.500
Durham 2013 Durham New Ferens Park 3.000
Everton 1983 Widnes Sân vận động Halton 13.350
London Bees 1975 Barnet The Hive 5.000
Millwall Lionesses 1972 Millwall The Den 20.000
Oxford United 2005 Oxford Sân vận động The Armadillo 2.000
Sheffield 2003 Dronfield Coaches and Horses 2.000
Watford 1970 Berkhamsted Sân vận động Broadwater 2.000
Yeovil Town 1990 Sherborne Huish Park 9.565

Các đội vô địch

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Đội vô địch Á quân Hạng ba Vua phá lưới Số bàn
2014 Sunderland Doncaster Rovers Belles Reading Fran Kirby (Reading) 24
2015 Reading Doncaster Rovers Belles Everton Courtney Sweetman-Kirk (Doncaster Rovers Belles) 20
2016 Yeovil Town Bristol City Everton Iniabasi Umotong (Oxford United)
Jo Wilson (London Bees)
13
2017–18 Doncaster Rovers Belles Brighton & Hove Albion Millwall Lionesses Jessica Sigsworth (Doncaster Rovers Belles) 15

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b “BBC Sport – Women's Super League to be expanded from 2015”. BBC Sport. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2014.
  2. ^ “Bristol City and Yeovil victories seal place in FA WSL 1”. FA.
  3. ^ “FA WSL 2014: Applications”. thefa.com. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2013.
  4. ^ “FA WSL 2014-2018 brochure”. thefa.com. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2013.
  5. ^ “The FA WSL Club Development Plan”. thefa.com. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2013.
  6. ^ “Clubs bid for WSL spot”. thefa.com. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2013.
  7. ^ “FA Selects Clubs for WSL”. WSL. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2014.
  8. ^ Baber, Mark. “Doncaster Belles lose appeal over demotion from Women's Super League”. Inside World Football. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2014.
  9. ^ a b “FA WSL 2 promotion announcement”. Faws1.com. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2014.
  10. ^ “Sheffield FC beat Portsmouth in Women's Premier League play-off”. BBC. ngày 24 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2015.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]