Nothing Special   »   [go: up one dir, main page]

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trại cải tạo lao động của Liên Xô”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã thay đổi mức khóa của “Trại cải tạo lao động của Liên Xô” ([Sửa đổi=Chỉ cho phép các thành viên tự động xác nhận] (vô thời hạn) [Di chuyển=Cấm mọi thành viên (trừ bảo quản viên)] (vô thời hạn))
 
(Không hiển thị 42 phiên bản của 17 người dùng ở giữa)
Dòng 1:
{{đổi hướng đến đây|Gulag}}
{{Infobox Government agency
'''Trại cải tạo lao động của [[Liên Xô]]''' là hệ thống trại cải tạo bằng lao động, chịu sự quản lý của cơ quan chính phủ đặc biệt tên là '''Gulag''' ([[tiếng Nga]]: ГУЛаг, tr. GULag, IPA: [ɡʊˈlak]).<ref>Các hệ thống cưỡng bức lao động khác của Liên Xô không nằm trong Gulag bao gồm: (a) các trại cho tủ nhân chiến tranh bị Liên Xô bắt, do GUPVI quản lý (b) filtration camps created during World War II for temporary detention of Soviet Ostarbeiters and prisoners of war while they were being screened by the security organs in order to "filter out" the black sheep, (c) "special settlements" for internal exiles including "kulaks" and deported ethnic minorities, such as Volga Germans, Poles, Balts, Caucasians, Crimean Tartars, and others. During certain periods of Soviet history, each of them kept millions of people. Many hundreds of thousand were also sentenced to forced labour without imprisonment at their normal place of work (Applebaum, pages 579-580)</ref>
|type = Tổng cục
 
|agency_name = Tổng cục trại giam<br>Гла́вное управле́ние лагере́й
GULag tên gọi tắt của Tổng cục Lao động cải tạo Liên Xô (Tiếng Nga: Главное управление исправительно-трудовых лагерей и колоний) của [[NKVD]] (Ủy ban Nhân dân Nội chính (Народный комиссариат внутренних дел, Narodnyy Komissariat Vnutrennikh Del), viết tắt là NKVD (НКВД) là các tổ chức cảnh sát công cộng và bí mật của Liên Xô trong thời kỳ của [[Iosif Vissarionovich Stalin|Joseph Stalin]].).
|logo = File:MVD Badge (Solid Colors).svg
|logo_width = 150px
|logo_caption = Biểu tượng Bộ Nội vụ Liên Xô
|picture =
|picture_caption =
|formed = 1/10/1930<br>13/1/1960
|date1 =
|date1_name =
|date2 =
|date2_name =
|preceding1 = [[Cục Trại giam Lao động cải tạo]] [[Cục Chính trị Quốc gia toàn liên bang]]
|preceding2 =
|dissolved = 7/5/1960<br>25/12/1991
|superseding = [[Tổng cục Thi hành án]] [[Bộ Nội vụ Liên Xô]]
|jurisdiction = [[Liên Xô]]
|headquarters =
|employees =
|budget =
|minister1_name = Tổng cục trưởng
|minister1_pfo =
|chief1_name =
|chief1_position =
|child1_agency =
|child2_agency =
|child3_agency =
|website =
|footnotes =
}}
'''Tổng cục Trại giam''' ({{lang-ru|Гла́вное управле́ние лагере́й}}, ''Glavnoe upravlenie lagerei'') còn được gọi tắt là '''Gulag''' (ГУЛаг) là hệ thống trại cải tạo bằng lao động, lần lượt chịu sự quản lý của [[Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô]], [[Bộ Nội vụ Liên Xô]], [[Bộ Tư pháp Liên Xô]] trong thời gian từ năm 1930-1960.<ref>Các hệ thống cưỡng bức lao động khác của Liên Xô không nằm trong Gulag bao gồm: (a) các trại cho tủ nhân chiến tranh bị Liên Xô bắt, do GUPVI quản lý (b) filtration camps created during World War II for temporary detention of Soviet Ostarbeiters and prisoners of war while they were being screened by the security organs in order to "filter out" the black sheep, (c) "special settlements" for internal exiles including "kulaks" and deported ethnic minorities, such as Volga Germans, Poles, Balts, Caucasians, Crimean Tartars, and others. During certain periods of Soviet history, each of them kept millions of people. Many hundreds of thousand were also sentenced to forced labour without imprisonment at their normal place of work (Applebaum, pages 579-580)</ref> Sau Tổng cục được đổi tên thành Tổng cục Thi hành án (Главное управление исполнения наказаний, GUIN). Hiện nay là [[Cơ quan Thi hành án Liên bang Nga|Cơ quan Thi hành án Liên bang]] (Федеральная служба исполнения наказаний, FSIN). GULag tên gọi tắt của Tổng cục trại lao động cải tạo và lao động định cư Liên Xô ([[Tiếng Nga]]: Главное управление исправительно-трудовых лагерей и колоний) của [[NKVD]] (Bộ Dân ủy Nội vụ (Народный комиссариат внутренних дел, Narodnyy Komissariat Vnutrennikh Del), viết tắt là NKVD (НКВД) là các tổ chức cảnh sát công cộng và bí mật của Liên Xô trong thời [[Iosif Vissarionovich Stalin|Joseph Stalin]].).
 
[[Tập tin:Gulag Location Map.png|400px|nhỏ|Một bản đồ của các trại Gulag tồn tại giữa các năm 1923 và 1961, dựa trên dữ liệu từ các Hiệp hội Nhân quyền]]
[[Tập tin:Gulag Prisoner Stats 1934-1953.PNG|nhỏ|Thống kê sơ lược số tù nhân Gulag từ năm 1934 đến 1953<ref>[{{Chú thích web |url=http://www.etext.org/Politics/Staljin/Staljin/articles/AHR/AHR.html] |ngày truy cập=2012-11-22 |tựa đề=Bản sao đã lưu trữ |archive-date = ngày 28 tháng 12 năm 2008 |archive-url=https://web.archive.org/web/20081228031043/http://www.etext.org/Politics/Staljin/Staljin/articles/AHR/AHR.html }}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://demoscope.ru/weekly/2007/0313/tema06.php |title=Демографические потери от репрессий |publisher=Demoscope.ru |date= |accessdateaccess-date = ngày 19 tháng 12 năm 2011}}</ref>]]
 
Hệ thống Gulag được chính thức thành lập ngày 25 tháng 4 năm 1930 và trên lý thuyết giải thể ngày 13 tháng 1 năm 1960.<ref>[http://www.memo.ru/history/NKVD/GULAG/r1/r1-4.htm Система исправительно-трудовых лагерей в СССР<!-- Bot generated title -->]</ref> Tại Liên Xô, việcViệc sử dụng cụm từ "Gulag" tại Nga để biểu thị hệ thống lao động cải tạo ở Liên Xô trong thời kỳ [[Iosif Vissarionovich Stalin|Stalin]], ở đâynơi giam giữ đủ mọi thành phần tùphạm nhân, từthuộc chốngđủ đốithành chính trị cho đến tù nhân hình sự nhưphần ([[trộmgiết cắpngười]], [[lừatrộm đảo]]cướp, [[giếtlừa người]]đảo...), (trong đó tù chính trị chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, còn phần lớn là tù hình sự). Tại đây, tù nhân lao động 10 giờ/ngày và còn được trả lương như những người lao động ngoài xã hội<ref>Getty and Manning. Stalinist Terror. Cambridge, NY: Cambridge University Press, 1993, p. 248</ref>, mụcNhưng đíchsau đó, đểGulag thường nhânđược thamtruyền giathông lao[[Chủ độngnghĩa nhằmchống cảicộng|chống tạo bản thân và tái hòa nhập xã hội. Tuy nhiên, truyền thôngCộng]] phương Tây lại thườngtả dùng Gulag để chỉ việcnơi những công dânnhà [[bất đồng chính kiến]] chống Chính phủ bịbằng giam giữ cộng với lao động khổcưỡng saibức<ref>[http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/story/2008/08/080811_solzhenitsynvuthuhien.shtml BBCVietnamese.com | Diễn đàn | Solzhenitsyn, bậc trưởng lão của văn học Nga<!-- Bot generated title -->]</ref>, dẫn tới việc Gulag thường đượcbị hiểu lầm ở phương Tây là một công cụ dùng để đàngiam ápgiữ tù chính trị.
 
NhiềuNhà nhàvăn bất[[Aleksandr đồngIsayevich chínhSolzhenitsyn|Aleksandr kiếnSolzhenitsyn]], Liênđã giới viếtthiệu vềthuật sựngữ tồnnày tạicho củathế hệgiới thốngphương trạiTây với Gulagviệc ngayxuất cảbản saunăm khi1973 tác đượcphẩm chính''[[Quần thứcđảo loanGulag]]'' báo đóngcủa cửamình. TrongCuốn sốsách ngườikết này,nối Anatolicác Marchenkotrại (1938-1986),rải rác chính ông đã chết trongthành "một trạichuỗi các Gulag,hòn quađảo" những bàiông viết củatả ông cho thấymột hệ thống Gulag, gulagnơi củamọi Liên Xôngười đã khônglàm chấmviệc dứtrất vớicực cái chết của Joseph Stalin.nhọc<ref name="autogenerated2">đểApplebaum, thamAnne khảo,(2003) hãyGulag: đọcA bàiHistory. [[:en:AnatoliDoubleday. Marchenko|AnatoliISBN Marchenko]]0767900561</ref><ref>Alexander Nikolaevich nhữngYakovlev. lờiA xácCentury nhậnof khácViolence củain VladimirSoviet Bukovsky,Russia. YuriYale OrlovUniversity Press, Nathan2002. Shcharansky,ISBN những0-300-08760-8 ngườip. được15</ref><ref>Steven thảRosefielde. raRed từHolocaust. GulagRoutledge, 2009. đượcISBN cho0415777577 phéppg. di247: "They sangserved phươngas Tây,killing saufields nhữngduring ápmuch lựcof quốcthe tếStalin đốiperiod, vớiand nhàas cầma quyềnvast Liênpool of kéocheap dàilabor nhiềufor nămstate projects."</ref> Các nguồn khác thì cho rằng Gulag là không lớn và điều kiện sống của tù nhân cũng không khắc nghiệt như trong sách báo phương Tây thường mô tả<ref name=autogenerated1>Getty, Rittersporn, Zemskov. Victims of the Soviet Penal System in the Pre-War Years: A First Approach on the Basis of Archival Evidence. The American Historical Review, Vol. 98, No. 4 (Oct., 1993), pp. 1017-1049</ref> cũng như nó không hề có các hành viđộng sát hại hàng loạt tù nhân<ref>Stephen Wheatcroft. "The Scale and Nature of German and Soviet Repression and Mass Killings, 1930-45", Europe-Asia Studies, Vol. 48, No. 8 (Dec., 1996), pp. 1319-1353</ref> mặc dù trong một số giai đoạn của lịch sử (như thế chiến thứ hai2), tỷ lệ tử vong trong các trại lao động tăng lêncao do chiến tranh làm cạn kiệt nguồn lương thực, thuốc men bị gâychiến ratranh bệnhtàn tật.phá<ref name=autogenerated2 />
 
Vào tháng 3ba năm 1940, đã có 53 trại riêng biệt và 423 vùng cải tạo lao động phạm nhân tại Liên Xô. Ngày nay, các thành phố công nghiệp vùng Bắc Cực của Nga, như Norilsk, Vorkuta, và Magadan, ban đầu chính là các trại lao động được xây dựng nên bởi những tù nhân và điều hành bởi các cựu tù nhân.<ref>Gulag: a History of the Soviet Camps". Arlindo-correia.com. http://www.arlindo-correia.com/041003.html. Truy cập 2009-01-06. <!-- liên kết lỗi --></ref>
 
==Lịch sử==
=== Bối cảnh ===
{{Cần biên tập}}
Vào thời kỳ [[Đế quốc Nga]], các [[Sa hoàng]] sử dụng hai hình thức án phạt là [[lưu đày]] cưỡng bức và [[lao động cưỡng bức]]. [[Katorga]], một án phạt dành riêng cho những người bị kết án với những tội danh nghiêm trọng nhất, có nhiều đặc điểm liên quan đến hình phạt tù lao động: giam giữ, cơ sở vật chất đơn giản (trái ngược với [[nhà tù]]) và lao động bắt buộc, thường liên quan đến lao động khổ sai, làm những công việc nặng mà không cần tay nghề hoặc kỹ năng làm việc. Việc sử dụng án phạt katorga giúp giảm án tử hình xuống, đồng thời cũng là cách trừng phạt hữu hiệu cho những kẻ mang tội danh nghiêm trọng.<ref>GARF, Cơ quan Lưu trữ Liên bang Nga, 9414/1/76</ref> Theo nhà sử học [[Anne Applebaum]], katorga không phải là một bản án thông thường; khoảng 6,000 tù nhân thụ án katorga vào năm 1906 và 28,600 vào năm 1916. Theo hệ thống hình sự Đế quốc Nga, những người bị kết án về những tội danh ít nghiêm trọng hơn sẽ bị đưa đến các nhà tù cải tạo và cũng được đưa đi lao động. Bị trục xuất đến [[Siberia]] đã được áp dụng từ thế kỷ XVII với nhiều tội danh và là hình phạt chung cho những [[người bất đồng chính kiến]] ​​và cách mạng. Vào thế kỷ XIX, các thành viên cuộc [[khởi nghĩa tháng Chạp]] thất bại, các [[Sybirak|quý tộc Ba Lan]] chống lại sự cai trị Đế quốc Nga, và các thành viên của các nhóm [[cách mạng xã hội chủ nghĩa]] khác nhau, bao gồm cả những người [[Bolshevik]] như [[Sergo Ordzhonikidze]], [[Leon Trotsky]] và [[Joseph Stalin]] đều bị đưa đi lưu đày. Những người bị kết án lao động và lưu đày đều được đưa đến các khu vực có dân số thấp ở Siberia và [[Viễn Đông]] của Nga - những khu vực có ít thị trấn hoặc nguồn thực phẩm và không có hệ thống giao thông có trật tự. Bất chấp điều kiện bị cô lập, có những tù nhân đã vượt ngục thành công đến các khu đông dân cư. Bản thân Stalin đã trốn thoát ba trong bốn lần khi ông bị đưa đi đày. Kể từ thời điểm này, Siberia có được ý nghĩa đáng sợ của sự trừng phạt, điều này càng được tăng cường bởi hệ thống GULAG của Liên Xô. Những trải nghiệm của chính những người Bolshevik với cuộc sống đày ải và lao động bắt buộc đã cung cấp cho họ một mô hình để làm cơ sở cho hệ thống của họ sau này, bao gồm cả tầm quan trọng trong việc thực thi.
 
Trong giai đoạn 1920–50, các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản và nhà nước Xô viết coi việc trấn áp các lực lượng phản cách mạng là một cách để đảm bảo hoạt động ổn định hệ thống nhà nước Xô viết, cũng như để duy trì và củng cố vị trí [[giai cấp công nhân]] trong nền tảng xã hội (khi những người Bolshevik nắm quyền, nông dân chiếm 80% dân số). Giữa [[Nội chiến Nga]], [[Lenin]] và những người Bolshevik đã thành lập một hệ thống trại tù "đặc biệt", tách biệt với hệ thống nhà tù truyền thống và nằm dưới sự kiểm soát của [[Cheka]]. Những trại này, như Lenin đã hình dung, có một mục đích chính trị rõ ràng. Những trại đầu tiên này của hệ thống GULAG được đưa ra nhằm mục đích cô lập và loại bỏ những [[Tù binh|tù binh chiến tranh]], giai cấp thù địch, nguy hiểm về mặt xã hội, gây rối, đáng ngờ và những thành phần chống cách mạng khác, những hành động và tư tưởng chống lại chế độ [[chuyên chính vô sản]]. Lao động bắt buộc như một "phương pháp cải tạo" đã được áp dụng trong [[trại tù Solovki]] ngay từ những năm 1920, với nền tảng là các thử nghiệm mới của Trotsky với các trại lao động dành cho tù nhân chiến tranh Séc từ năm 1918 và các đề xuất của ông để đưa ra "nghĩa vụ lao động bắt buộc" được ghi trong cuốn sách "[[Chủ nghĩa khủng bố và chủ nghĩa cộng sản]]". Nhiều loại tù nhân được xác định: tội phạm nhỏ, tù binh trong Nội chiến Nga, quan chức bị cáo buộc tham nhũng, phá hoại và biển thủ ngân sách, kẻ thù chính trị, những người hoạt động chống chính phủ ​​và những người khác bị coi là nguy hiểm cho nhà nước. Trong thập kỷ đầu tiên dưới sự nắm quyền của Xô viết, hệ thống tư pháp và hình sự không thống nhất cũng như không phối hợp với nhau, và có sự phân biệt giữa tù nhân hình sự, [[tù nhân chính trị]] hoặc "đặc biệt". Hệ thống tư pháp và nhà tù "truyền thống", nơi xử lý tù nhân hình sự, lần đầu tiên được giám sát bởi Bộ Dân ủy Tư pháp cho đến năm 1922, được giám sát bởi Bộ Dân ủy Nội vụ, còn được gọi là NKVD. Cheka và các tổ chức kế nhiệm của nó, GPU và OGPU, giám sát các tù nhân chính trị và các trại "đặc biệt" mà họ được gửi đến. Vào tháng 4 năm 1929, sự phân biệt tư pháp giữa tù nhân hình sự và tù nhân chính trị đã được xóa bỏ, quyền kiểm soát toàn bộ hệ thống hình sự của Liên Xô được chuyển giao cho OGPU. Năm 1928 có 30.000 cá nhân bị giam giữ; chính quyền Liên Xô đã phản đối việc cưỡng bức lao động. Năm 1927, viên chức phụ trách quản lý nhà tù đã viết:
=== Hệ thống trại tù thời Nga hoàng ===
{{Quote|Việc bóc lột sức lao động trong tù, hệ thống vắt "mồ hôi vàng" từ họ, tổ chức sản xuất ở những nơi giam giữ, vốn mang lại lợi nhuận trên quan điểm thương mại về cơ bản là thiếu ý nghĩa trừng phạt - những điều này hoàn toàn không thể chấp nhận được ở những trại giam giữ ở Liên Xô.}}
Ngay cả từ thời Nga hoàng các tù nhân chính trị và hình sự mà bị cho là nguy hiểm bị đày đi tới [[Siberia]] ([[Katorga]]). Chẳng hạn như Lenin từ 1897 cho đến 1900 và Stalin từ 1913 đến 1917 đã bị đi đày tới vùng [[Krasnoyarsk (vùng)|Krasnoyarsk]]. Trong những trại cải tạo này vào thập niên 1830 khoảng 8.000 người bị giam giữ, đến thập niên 1870 là khoảng 20.000 và bắt đầu thế kỷ 20 lên đến khoảng 30.000 người.
 
Cơ sở pháp lý và hướng dẫn cho việc thành lập hệ thống "trại lao động cải tạo" ({{lang-ru|исправи́тельно-трудовые лагеря}}, Ispravitel'no-trudovye lagerya), xương sống của "Gulag", là một Sắc lệnh bí mật của [[Hội đồng Dân ủy Liên Xô|Hội đồng Dân ủy]] (Sovnarkom) ngày 11 tháng 7 năm 1929, về việc sử dụng lao động hình sự tương ứng bản sao phụ lục biên bản cuộc họp Bộ Chính trị ngày 27 tháng 6 năm 1929.
=== Hệ thống trại tù thời Liên Xô===
[[Tập tin:The fence at the old GULag in Perm-36.JPG|nhỏ|Các hàng rào ở Gulag cũ tại Perm-36]]
[[Hình:Belomorkanal.png|nhỏ|Tù nhân lao động tại công trường]]
 
Một trong những người sáng lập hệ thống Gulag là [[Naftaly Aronovich Frenkel]]. Năm 1923, ông bị bắt vì tội vượt biên trái phép và buôn lậu. Frenkel bị kết án 10 năm tù lao động tại Solovki, nơi sau này được gọi là "trại đầu tiên của Gulag". Trong thời gian thụ án, ông đã viết một lá thư cho ban quản lý trại kể chi tiết một số đề xuất "cải thiện năng suất" gồm một hệ thống lao động bắt buộc khi khẩu phần ăn của tù nhân được liên kết với tỷ lệ sản xuất của họ, một đề xuất được gọi là "quy mô nuôi dưỡng" (шкала питания). Hệ thống "có làm mới có ăn" này khiến Frenkel nhanh chóng từ một tù nhân trở thành quản lý trại và một quan chức quan trọng của Gulag. Các đề xuất của ông nhanh chóng được áp dụng rộng rãi trong hệ thống Gulag.
Sau cuộc [[Cách mạng Tháng Mười]], [[Quần đảo Solovetsky]] (Solovki) đã có sự tai tiếng như là địa điểm của trại tù đầu tiên của hệ thống gulag Liên Xô.<ref>{{cite book| author=Aleksandr Solzhenitsyn| title=The Gulag Archipelago | publisher=Collins & Harvill Press| date=1975| page=Vol. 2, Part III, Chapter 2}}</ref> Trại được khánh thành vào năm 1921, trong khi [[Vladimir Lenin]] vẫn giữ quyền lãnh đạo Liên Xô.
 
Sau khi xuất hiện như một công cụ để cô lập các phần tử phản cách mạng và tội phạm, Gulag, vì nguyên tắc "trừng phạt bằng lao động bắt buộc", trên thực tế, nó nhanh chóng trở thành một nhánh độc lập của nền kinh tế quốc dân được bảo đảm bằng giá rẻ là sức lao động tù nhân. Do đó, theo sau đó là một lý do quan trọng hơn cho sự không ngừng của chính sách chống phản cách mạng, đó là sự quan tâm của nhà nước đối với tỷ lệ tiếp nhận một lực lượng lao động rẻ được sử dụng một cách bắt buộc, chủ yếu trong điều kiện khắc nghiệt ở phía đông và bắc. Như vậy, Gulag sở hữu cả chức năng trừng phạt tội phạm và sản xuất kinh tế.
Trong 25 năm (1929-1953), khoảng 14 triệu người đã từng phải trải qua Gulag, với thêm 6 đến 7 triệu bị trục xuất và phải di cư đến các vùng sâu vùng xa của Liên Xô.<ref>Theo Conquest, giữa 1939 và 1953, tỷ lệ chết hàng năm tại các trại lao động là 10%, cao là 20% năm 1938. Robert Conquest trong cuốn "Victims of Stalinism: A Comment." Europe-Asia Studies, Vol. 49, No. 7 (Nov., 1997), pp. 1317-1319 nói: "We are all inclined to accept the Zemskov totals (even if not as complete) with their 14 million intake to Gulag 'camps' alone, to which must be added 4-5 million going to Gulag 'colonies', to say nothing of the 3.5 million already in, or sent to, 'labour settlements'. However taken, these are surely 'high' figures."</ref> Tuy nhiên, Gulag giam giữ phạm nhân đủ mọi thành phần, không chỉ tù chính trị mà còn cả tù hình sự ([[trộm cắp]], [[lừa đảo]], [[giết người]]...). Trung bình mỗi năm có khoảng 600.000 người ở trong các trại Gulag (cao điểm là vào năm 1937-38 đạt 1,7 triệu người), tức là khoảng 0,4% dân số Liên Xô. Tỷ lệ này thực tế là không cao, để so sánh, năm 1978, số người da đen ở Mỹ là 23 triệu người, trong đó khoảng 200.000 (khoảng 0,9%) đã bị tống giam<ref>Szymanski, Albert Human Rights in the Soviet Union. London: Zed Books, 1984, p. 246</ref>, hoặc năm 2004 đã có 2.079.000 người Mỹ đang bị giam giữ do mọi nguyên nhân phạm tội, tỷ lệ là khoảng 0,7% dân số. Tuy vậy tỉ lệ người chết trong các trại giam Gulag lại cao hơn rất nhiều <ref>{{cite web|last1=Werth|first1=Nicolas|title=STATE VIOLENCE IN STALIN's REGIME: OUTLINE FOR AN INVENTORY AND CLASSIFICATION|url=http://stanford.edu/dept/france-stanford/Conferences/Terror/Werth.pdf|publisher=[[Stanford University]]|date=20 January 2009}}</ref><ref>{{cite web | url=https://www.loc.gov/exhibits/archives/gula.html | title=Letter To the Presidium of the Central Executive Committee of the All-Union Nazi Party (Bolshevik) | date=December 14, 1926 | accessdate=April 15, 2015 | author=G. Zheleznov, Vinogradov, F. Belinskii}}</ref>. Theo ý kiến ​​của D.I. L.I. Borodkina, không đúng khi so sánh về điều kiện giam giữ và số lượng tù nhân trong các nhà tù ở Liên bang Nga và Hoa Kỳ hiện nay với số lượng và điều kiện giam giữ tù nhân trong các trại giam Gulag. Theo học giả này, không giống như ở Hoa Kỳ ngày nay, việc kết án các phạm nhân và đưa họ vào các trại giam Gulag ở Liên Xô thời kì đó là rất qua loa và không công bằng. Borodkina cũng chỉ ra điều kiện trong các trại giam Gulag là "vô nhân đạo" và cũng cho rằng "''''không nên nhầm lẫn giữa việc bị bỏ tù tội hình sự và thường xuyên bị bỏ đói trong một trại giam <ref>[https://echo.msk.ru/programs/staliname/657435-echo/#element-text Именем Сталина: Гулаг на «Великих стройках коммунизма» // Эхо Москвы, 20.02.2010]</ref>''. Borodkin thì cho rằng hệ thống hiến pháp của hầu hết các quốc gia dân chủ hiện đại đều có một quy định đặc biệt, trong đó cấm cưỡng bức lao động tù nhân. Trong khi luật pháp của Liên Xô thời kì đó, theo Borodkin, nói: "Lao động cưỡng bức không chỉ được phép, mà thậm chí được khuyến khích bởi Liên bang" Theo tiêu chí này các tù nhân của hệ thống trại giam Gulag có thể được xem là lao động khổ sai <ref>[http://svpressa.ru/politic/article/203566/?ans=1 Пол Робертс: США толкают мир к пропасти при поддержке предателей из России]</ref>.
 
===Thành lập và mở rộng===
Theo một nghiên cứu không đầy đủ dữ liệu năm 1993 từ lưu trữ của Liên Xô, tổng cộng 1.053.829 người đã chết vì bệnh tật trong các Gulag trong suốt 20 năm (1934-1953)<ref name="autogenerated1" /> Các dữ liệu hoàn thành đưa số người chết trong khoảng thời gian này lên 1.258.537, một số ước tính cho rằng đã có 1,6 triệu thương vong tính cả giai đoạn từ 1929 tới 1953.<ref>Steven Rosefielde. Red Holocaust. Routledge, 2009. ISBN 0415777577 pg. 67 "...more complete archival data increases camp deaths by 19.4 percent to 1,258,537" ("nhiều dữ liệu lưu trữ đầy đủ cho biết số tử vong tăng hơn trong các trại bằng 19,4% bằng 1.258.537); pg 77: "The best archivally based estimate of Gulag excess deaths at present is 1.6 million from 1929 to 1953." ("Dữ liệu tốt nhất ước tính các trường hợp tử vong trong Gulag hiện nay là 1,6 triệu từ 1929 đến 1953")</ref> Những ước tính này không tính những người đã chết sau khi được thả, nhưng bao gồm những cái chết được xem là kết quả của điều kiện sống khắc nghiệt trong các trại;<ref>Ellman, Michael. Soviet Repression Statistics: Some Comments Europe-Asia Studies. Vol 54, No. 7, 2002, 1151-1172</ref><ref>Applebaum, Anne (2003) Gulag: A History. Doubleday. ISBN 0767900561 pg 583: "both archives and memoirs indicate that it was common practice in many camps to release prisoners who were on the point of dying, thereby lowering camp death statistics."</ref> Tổng số tù nhân của các trại dao động từ 510.307 (năm 1934) đến 1.727.970 (năm 1953).<ref name="autogenerated1" />
Vào ngày 11 tháng 7 năm 1929, Hội đồng Dân ủy Liên Xô đã thông qua một quyết định "Về việc sử dụng lao động trong tù", theo đó tất cả những người bị kết án từ ba năm trở lên đều được chuyển đến [[OGPU]]. Vào ngày 25 tháng 4 năm 1930 theo quyết định số 130/63 OGPU, và theo Nghị quyết số 22 Hội đồng Dân ủy Liên Xô về "Quy định về Trại Lao động Cải tạo" ngày 7 tháng 4 năm 1930, Cục trại lao động cải tạo (UVLag OGPU) được thành lập. Từ ngày 1 tháng 10 năm 1930, UVLag OGPU được chuyển đổi thành Tổng cục Trại Lao động Cải tạo OGPU (Gulag). Ngày 10 tháng 7 năm 1934, Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô được thành lập, bao gồm 5 tổng cục. Một trong số đó là Tổng cục Trại (Gulag). Năm 1934, Lực lượng Hộ tống Liên Xô được hoán đổi lại thành [[Lực lượng Bảo vệ Nội bộ]] NKVD. Vào ngày 27 tháng 10 năm 1934, tất cả các cơ sở lao động cải tạo thuộc [[Bộ Dân ủy Tư pháp Nga Xô]] đã được chuyển đến Gulag.
 
Giả thuyết cho rằng những cân nhắc về kinh tế là nguyên nhân gây ra các vụ bắt giữ hàng loạt trong thời kỳ Stalin đã bị bác bỏ trên cơ sở các tài liệu lưu trữ của Liên Xô được tiếp cận dễ dàng từ những năm 1990, mặc dù một số nguồn lưu trữ cũng có xu hướng ủng hộ giả thuyết kinh tế. Trong bất kỳ trường hợp nào, sự phát triển của hệ thống trại cũng làm gia tăng kinh tế. Sự phát triển hệ thống trại đồng thời với đỉnh cao của chiến dịch công nghiệp hóa của Liên Xô. Hầu hết các trại được thành lập để chứa số lượng lớn tù nhân đến đều được giao những nhiệm vụ kinh tế riêng biệt. Những hoạt động này bao gồm việc khai thác [[tài nguyên thiên nhiên]], xây dựng và thuộc địa hóa các vùng sâu vùng xa, cũng như thực hiện cơ sở hạ tầng khổng lồ và các dự án xây dựng công nghiệp. Kế hoạch đạt được những mục tiêu này với các "[[Các khu định cư đày ải ở Liên Xô|khu định cư đặc biệt]]" thay vì các trại lao động đã bị hủy bỏ sau khi [[vụ Nazino]] bị bại lộ vào năm 1933; sau đó hệ thống Gulag được mở rộng.
Nếu chia bình quân thì trung bình mỗi năm, khoảng 60.000 tù nhân chết trong Gulag do mọi nguyên nhân. Nhưng trong thời kỳ [[Thế chiến thứ 2]], tù nhân của Gulag tăng đột biến tỷ lệ chết trong giai đoạn 1941–1943. Vào mùa đông 1941, khoảng 20% số tù nhân ở Gulag đã chết vì đói và lạnh hoặc do thiếu thuốc men, bởi lương thực và quần áo phải được chuyển bớt cho quân đội để chống Đức Quốc Xã, khoảng 516.841 tù nhân chết trong các trại gulag trong giai đoạn 1941-43.<ref>Zemskov, Gulag, Sociologičeskije issledovanija, 1991, No. 6, pp. 14-15</ref>. Nhưng đó là tình cảnh khó khăn chung của Liên Xô khi ấy (hàng triệu dân thường Nga cũng chết vì đói rét trong 3 năm đó, do nông nghiệp Liên Xô bị quân Đức tàn phá). Nếu loại bỏ số tù nhân chết trong giai đoạn 1941-1944 bởi nguyên nhân khách quan là chiến tranh với Đức quốc xã, thì số tù nhân Gulag chết mỗi năm là khoảng 40.000 người, chiếm khoảng 3% số phạm nhân. So sánh với tỷ lệ tử vong trung bình của người dân nước Nga thời kỳ đó (khoảng 2 - 2,5% mỗi năm), thì tỷ lệ chết như vậy không cao hơn là bao. Tỷ lệ này cũng chỉ xấp xỉ tỷ lệ chết của lính Đức trong trại tù binh của Pháp năm 1940 (khoảng 2,58%) và kém rất xa tỷ lệ chết của lính Nga trong các trại tù binh của Quốc Xã trong thế chiến 2 (khoảng 30% mỗi năm).
 
Các tài liệu lưu trữ năm 1931–32 cho thấy Gulag có khoảng 200.000 tù nhân trong các trại; trong khi năm 1935, khoảng 800.000 người ở trong các trại và 300,000 người ở vùng sâu vùng xa (trung bình hàng năm).
[[File:Solovetsky Stone - Moscow.jpg|thumb|Một hòn đá từ trại [[Solovki]] được đặt ở phía trước của trụ sở [[KGB]] ở [[Quảng trường Lubyanka]] tại [[Moskva]], đây cũng là nơi thường tập trung các nhân vật bất đồng chống chính phủ tại Nga để tưởng niệm]]
Trong các trại Gulag, thái độ đối với người bệnh được quy định trong pháp luật, là phải cứu chữa cho họ. Trại trưởng phải báo cáo hàng ngày đến trung tâm quản lý về tình hình trong trại, số lượng tù nhân. Nếu tỷ lệ tử vong của tù nhân vượt qua một mức nhất định, người chỉ huy trại, và toàn bộ nhân viên của ông sẽ bị đuổi việc; chỉ huy sẽ bị kỷ luật hoặc bị phạt tù lâu dài. Hệ thống Gulag có thể cung cấp nguồn lao động cho vùng sâu vùng xa, đồng thời cô lập những người bị coi là nguy hiểm đối với xã hội, để họ cải tạo thông qua lao động, nhưng không phải để giết họ. Các trại đều có phòng y tế, có các bác sĩ được tuyển từ trong số các tù nhân là những người tốt và tận tụy, những người đã cứu sống rất nhiều bệnh nhân<ref>Berger, Joseph. Nothing but the Truth. New York, John Day Co. 1971, p. 197</ref>
 
Vào đầu những năm 1930, chính sách thắt chặt án phạt của Liên Xô đã khiến tù nhân trại tù tăng lên đáng kể. Trong cuộc [[Đại thanh trừng]] năm 1937–38, các vụ bắt giữ hàng loạt khiến số tù nhân gia tăng, hàng trăm nghìn người đã bị bắt và bị kết án tù dài hạn bởi Điều 58 [[Bộ luật Hình sự Liên Xô|Bộ luật Hình sự toàn Liên bang]], theo đó quy định án phạt cho nhiều hình thức "hoạt động phản cách mạng".
Vào cuối những năm 1940, do Liên Xô đã khôi phục được kinh tế đất nước, số người chết mỗi năm trong các trại Gulag vì nhiều lý do khác nhau là rất ít, không quá 15.000 người/năm, tỷ lệ chết không quá 1%<ref>http://www.northstarcompass.org/nsc9912/lies.htm</ref>. Theo những câu chuyện tuyên truyền chống Liên Xô, đặc biệt là trong [[chiến tranh Lạnh]], các trại lao động Xô viết được truyền thông phương Tây mô tả hầu hầu như giống như các trại tập trung của Hitler: ''"tù nhân bị hành hạ và chết như ruồi"''. Ấn tượng này được tạo ra từ cuốn sách "Quần đảo Gulag" của Solzhenitsyn (một nhà văn bất đồng chính kiến với Nhà nước Liên Xô). Một số ý kiến khác phản đối, cho rằng các trại Gulag chỉ giống như một trại lao động tập thể, nơi phạm nhân lao động công ích 10 giờ mỗi ngày, và hoàn toàn không có chuyện tù nhân bị ép lao động đến chết.<ref>Werth, Alexander. Russia, The Post-War Years. New York: Taplinger Pub. 1971, p 30</ref>
 
TừTrong khoảng thời gian từ năm 1934 đến năm 1941, số tù nhân có trình độ học vấn bậc cao tăng gấphơn năm8 lần., Kết quảsố sựnhân gia tăngtrình tỉđộ lệhọc củavấn họtăng tronggấp thành5 phần tổng thể của các tù nhân trại giamlần. Trong số các tù nhân trạicủa giamtrại, số lượng và tỷ lệ củathành giớiphần trí thức đang tăng lênvới tốc độ nhanh nhất. Sự khôngThông tin tưởng,liên nghiquan kỵđến xu hướngthậmhậu chíquả thùcủa hậnviệc bỏ tù dànhđối chovới giới trí thức cũngbắt nguồn mộttừ đặcviệc điểmkết chungluận của các[[Viktor nhàZemskov]] lãnhtừ đạotập Liênhợp dữ <refliệu name="Земсков"/>về hoạt động tù nhân trong trại tù.
 
===Gulag thời kỳ đầu Stalin (1929-1934)===
==Điều kiện sống ở các trại==
Gulag là một cơ quan quản lý giám sát các trại; cuối cùng tên này được sử dụng cho các trại sau này. Sau khi Lenin qua đời vào năm 1924, Stalin đã nắm quyền kiểm soát chính quyền và bắt đầu hình thành hệ thống gulag. Trước khi tạo ra Gulag trong Liên Xô, việc quản lý hầu hết các nơi giam giữ được giao cho Ban thi hành án thuộc Bộ Dân ủy Tư pháp và Tổng cục Lao động cưỡng chế thuộc Bộ Dân ủy Nội vụ.
Điều kiện sống và làm việc trong các trại khác nhau đáng kể theo thời gian và địa điểm, trong đó tùy thuộc ảnh hưởng của các sự kiện lớn như ([[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]], nạn đói và sự thiếu hụt trên toàn quốc, bất ngờ nhập hay thả số lượng lớn các tù nhân... Tù nhân tại các trại có điều kiện khó khăn thường phải đối mặt với tình trạng quá đông người, nhà ở cách nhiệt kém, vệ sinh kém, và chăm sóc sức khỏe không đủ. Các tù nhân ở các trại thuận lợi hơn thì có điều kiện sống tốt hơn, và được cung cấp thực phẩm và thuốc men ở mức cơ bản.
 
Vào ngày 27 tháng 6 năm 1929, [[Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô|Bộ Chính trị]] thành lập một hệ thống các trại tự sản xuất mà cuối cùng sẽ thay thế các nhà tù hiện có trên khắp đất nước. Những nhà tù này nhằm tiếp nhận những tù nhân nhận án tù vượt quá ba năm. Các tù nhân có bản án tù ngắn hơn ba năm phải ở lại trong hệ thống nhà tù vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Bộ Dân ủy Nội vụ. Mục đích của những trại mới này là để thuộc địa hóa những vùng đất xa xôi và khắc nghiệt trên khắp Liên bang Xô Viết. Những thay đổi này diễn ra cùng thời điểm Stalin bắt đầu tập hợp và phát triển công nghiệp nhanh chóng. Tập thể hóa dẫn đến một cuộc bắt giam quy mô lớn với các địa chủ gọi là [[Kulaks]]. Những người Kulaks được cho là giàu có (so với những nông dân Liên Xô khác) và được nhà nước coi là những kẻ thù giai cấp của chủ nghĩa xã hội coi. Thuật ngữ này cũng sẽ gắn liền với bất kỳ ai phản đối chính quyền Liên Xô. Điều này dẫn đến thực tế là trong bốn tháng đầu tiên của chiến dịch [[dekulakization]], 60.000 người đã bị đưa đến các trại.
Nhà văn Aleksandr Solzhenitsyn, đã giới thiệu thuật ngữ Gulag cho thế giới phương Tây với việc xuất bản năm 1973 cuốn tiểu thuyết của mình. Cuốn sách kết nối các trại rải rác thành "một chuỗi các hòn đảo" và mô tả một hệ thống Gulag, nơi điều kiện làm việc rất cực nhọc<ref name=autogenerated2>Applebaum, Anne (2003) Gulag: A History. Doubleday. ISBN 0767900561</ref> Một số học giả đồng tình với mô tả của Solzhenitsyn<ref>Alexander Nikolaevich Yakovlev. A Century of Violence in Soviet Russia. Yale University Press, 2002. ISBN 0-300-08760-8 p. 15</ref><ref>Steven Rosefielde. Red Holocaust. Routledge, 2009. ISBN 0415777577 pg. 247: "They served as killing fields during much of the Stalin period, and as a vast pool of cheap labor for state projects."</ref> Trong thời kỳ [[chiến tranh Lạnh]], tác phẩm của Solzhenitsyn đã được truyền thông phương Tây tích cực sử dụng như một vũ khí truyên truyền chống lại Liên Xô. Nhưng theo [[Natalya Reshetovskaya]], vợ của Aleksandr Solzhenitsyn, cho biết trong cuốn hồi ký của mình rằng tiểu thuyết của chồng bà đã được sáng tác dựa trên ''"các câu chuyện được nghe kể bên đống lửa và các nguồn hỗn tạp"''. Theo bà kể lại, Solzhenitsyn không hề coi cuốn sách là một tác phẩm nghiêm túc về lịch sử, nó hoàn toàn trái ngược với sự thật khách quan. Truyền thông Phương Tây đã đánh giá cuốn sách này quá cao và thẩm định nó một cách sai lầm<ref>{{Cite news|url=https://www.nytimes.com/2003/06/06/world/natalya-reshetovskaya-84-is-dead-solzhenitsyn-s-wife-questioned-gulag.html|title=Natalya Reshetovskaya, 84, Is Dead; Solzhenitsyn's Wife Questioned 'Gulag'|last=Lewis|first=Paul|date=2003-06-06|newspaper=The New York Times|issn=0362-4331|access-date=2017-01-26}}</ref>. Tuy vậy theo nhiều ý kiến khác từ những người còn sống sót sau khi bị giam trong các trại gulag, và Kho lưu trữ Mitrokhin lại cho rằng những cuốn hồi kí của bà Natalya này chỉ là một phần trong chiến dịch làm mất uy tín Solzhenitsyn của [[KGB]], do [[Yuri Andropov]] cầm đầu tiến hành vòa năm 1974 <ref name="Andrew">{{Citation|title=The [[Mitrokhin Archive]]: The KGB in Europe and the West|year=2000|last1=Andrew|last2=Mitrokhin|first1=Christopher|first2=Vasili|author1-link=Christopher Andrew (historian)|author2-link=Vasili Mitrokhin|pages=416–19|publisher=Gardners Books|ISBN=0-14-028487-7}}</ref>.
 
Năm 1934, các nhà tù chung được chuyển cho Gulag thuộc NKVD Liên Xô.
[[Tập tin:Canal Mer Blanche.jpg|nhỏ|Kênh đào [[Biển Trắng]] (The White Sea - Baltic Canal) là dự án lớn đầu tiên được xây dựng ở Liên Xô sử dụng lao động trong các trại Gulag]]
Sự khác biệt trong điều kiện sống cho các loại tù nhân được minh họa trong hồi ký của [[Victor Herman]]. Ông sống trong các trại Burepolom và Nuksha 2, cả hai đều gần [[Viatka]], ở phía bắc của Nga. Tại Burepolom có ​​khoảng 3.000 tù nhân, tất cả đều là tù nhân chịu án hình sự (trộm cắp, lừa đảo, cướp của...), họ có thể đi dạo theo ý muốn, được canh gác ở mức nhẹ nhàng, sống trong các doanh trại với nệm và gối, và được xem chiếu phim. Ở một số trại cũng cho phép tù nhân nghe hòa nhạc hoặc biểu diễn ca hát trong trại. Chỉ ở Nuksha 2, nơi giam giữ các tội phạm nghiêm trọng (giết người, gián điệp, phá hoại tài sản quốc gia...), tù nhân mới phải sống trong khu biệt lập với các tháp canh có súng máy và không cho phép thư từ. Cách bố trí này cũng giống với các trại giam thời nay (có khu giam giữ riêng dành cho tội phạm nghiêm trọng và khu giam giữ chung dành cho phạm nhân thông thường).
 
====Phi kulak hóa====
Mục đích của Gulag là để giáo dục phạm nhân bằng lao động. Do đó, hầu hết các tù nhân phải thực hiện các hình thức lao động sản xuất như chặt cây, xây nhà, làm đường, đào kênh mương... Các tù nhân có thể rút ngắn án phạt của họ bằng cách lao động vượt các chỉ tiêu công việc. Ví dụ, khi xây dựng [[kênh đào Baltic - Biển Trắng]], 300 tù nhân đã được khen thưởng, 12.000 người được tha bổng, và 59.000 người đã bị giảm án nhờ lao động chăm chỉ trên công trường<ref>Life and Terror in Stalin's Russia, 1934-1941. New Haven: Yale University Press, c1996, p. 102-104</ref>. Hầu hết các tù nhân bị buộc phải thực hiện lao động chân tay thô bạo. Do tình hình dinh dưỡng và vệ sinh, điều kiện thời tiết và công việc, các loại bệnh tật như [[thương hàn]], [[kiết lỵ]], bệnh còi xương, Pellagra, [[ghẻ]] và bệnh quáng gà xảy ra thường xuyên. Về đông,khí hậu nước [[Nga]] rất lạnh, nên viêm phế quản và tê cóng là điều thường gặp. Ánh sáng lóe lên trong tuyết và băng đá có thể dẫn đến chứng quáng mắt hoặc thậm chí mù vĩnh viễn. Tại các trại miền Nam, nhiều tù nhân phải đối mặt với bệnh sốt rét do muỗi tại các khu rừng.<ref>Zu Lagerkrankheiten siehe Stark: ''Frauen im Gulag. Alltag und Überleben'', S. 351–357. Zur Gefahr durch winterliches Sonnenlicht in Eis und Schnee Ivanova: ''Der Gulag im totalitären System der Sowjetunion'', S. 110.</ref>
Cuối năm 1929, Stalin bắt đầu một chương trình được gọi là phi kulak hóa. Stalin yêu cầu xóa sổ hoàn toàn giai cấp phú nông (kulak), dẫn đến việc bắt giam tầng lớp phú nông ở Liên Xô. Chỉ trong vòng bốn tháng, 60.000 người bị đưa đến các trại và 154.000 người khác bị trục xuất. Tuy nhiên, đây chỉ là bước khởi đầu của quá trình phi kulak hóa. Riêng năm 1931, 1.803.392 người bị trục xuất.
 
Mặc dù những quá trình tái định cư khổng lồ này đã thành công trong việc thu hút một lượng lớn lực lượng lao động tiềm năng ở nơi cần đến họ, nhưng những người định cư phải sống với khẩu phần thiếu thốn, nhiều người đã cố gắng trốn khỏi trại. Điều này dẫn đến việc chính phủ phải chia khẩu phần ăn cho một nhóm người mà họ hầu như không được sử dụng, và chỉ gây tốn kém tiền bạc của chính phủ Liên Xô. OGPU nhanh chóng nhận ra được vấn đề, và bắt đầu cải cách quá trình phi kulak hóa. Để giúp ngăn chặn hàng loạt người trốn thoát, OGPU bắt đầu tuyển dụng những người dân tại địa phương để giúp ngăn chặn những người cố gắng bổ trốn và thiết lập các trạm kiểm soát xung quanh các lối thoát phổ biến. OGPU cũng cố gắng nâng cao điều kiện sống trong các trại này để khuyến khích mọi người không tìm cách trốn thoát và các kulak được hứa rằng họ sẽ lấy lại quyền công dân của mình sau 5 năm.
[[Andrei Vyshinsky]], Kiểm sát viên của [[Liên bang Xô viết]], đã viết một bản báo cáo cho giám đốc NKVD [[Nikolai Yezhov]] năm 1938 tuyên bố:
 
===1934-1941===
<blockquote>
Tháng 10/1934, Tổng cục Trại được đổi tên thành Tổng cục các trại, khu định cư lao động và nơi giam giữ (Главное управление лагерей, трудпоселений и мест заключения). Sau đó Tổng cục được đổi tên hai lần nữa và vào tháng 2 năm 1941, nó được đổi tên thành Tổng cục các trại lao động cải huấn và di dân NKVD Liên Xô (Главное управление исправительно-трудовых лагерей и колоний НКВД СССP).
 
Số lượng tù nhân tăng lên đáng kể do kết quả của Đại khủng bố năm 1937-38. Sau khi phê duyệt lệnh NKVD số 00447 ngày 31.07.37, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Toàn Liên bang (bolshevik) đã yêu cầu Hội đồng Dân ủy Liên Xô phân bổ cho NKVD 75 triệu rúp từ quỹ dự trữ để thực hiện các chiến dịch đại quy mô. Trong đó 25 triệu để trả cho việc vận chuyển tù nhân loại hai bằng đường sắt và 10 triệu để xây dựng các trại mới. Các tù nhân được đưa đến các dự án xây dựng lớn đã có Gulag, để xây dựng các trại mới hoặc làm việc trong ngành công nghiệp lâm nghiệp. Lệnh của NKVD số 00447 ngày 31.07.37 cũng xem xét các trường hợp bị kết án đã ở trong các trại Gulag. Theo quyết định của các tòa án troikas này, gần 28.000 tù nhân trong trại đã bị xử bắn.
Trong số những tù nhân có một số rất rách rưới và họ đặt ra một mối nguy hiểm vệ sinh với phần còn lại. Những tù nhân này đã ở trong tình trạng xấu đến mức trông không còn trạng thái của một người bình thường. Thiếu thức ăn, họ tuyệt vọng nhặt nhạnh những thứ như rác, và theo một số tù nhân, phải ăn cả những con chuột và những con chó hoang để sống.<ref>Jonathan Brent. ''Inside the Stalin Archives: Discovering the New Russia.'' Atlas & Co., 2008 ({{ISBN|0-9777433-3-0}}) pg. 12 [http://atlasandco.com/images/uploads/samples/pdf/InsideStalinArchives-web.pdf Introduction online] ([[PDF]] file)</ref></blockquote>
 
Trong năm 1939-1941, số lượng tù nhân Gulag đã tăng lên đáng kể do những người bị bắt từ các vùng lãnh thổ mới Liên Xô và những người bị kết án vì những tội danh mới. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1939, các trại Gulag, di dân và nhà tù giam giữ gần 1,990,000 tù nhân. Đã có 1,290,000 người (bao gồm 107,000 phụ nữ và khoảng 440,000 người bị kết án về các hoạt động gián điệp, chống đối chính trị) trong các trại cải tạo lao động.
Những trại Gulag ở những vùng có khí hậu lạnh ít quan tâm đến việc tìm những tù nhân bỏ trốn vì bởi đằng nào họ cũng sẽ chết bởi bởi mùa đông lạnh giá. Chính quyền Gulag ở trung ương và địa phương thậm chí còn buộc các tù nhân phải thi hành lao động cưỡng bức ngay cả trong điều kiện thời tiết vô cùng khắc nghiệt. Vào mùa đông năm 1938/1939, nhiệt kế tại Kolyma đã báo nhiệt độ tụt xuống ngưỡng -60 độ, lúc ấy các tù nhân mới được triệu hồi vào trại. Trong một tài liệu có chữ ký của trưởng bộ phận hoạt động Gulag thuộc NKVD của Liên Xô vào năm 1942, một số trại giam như Khomyakov, Ukolov, Trofimov và Ovsyannikov đã gây ra những vụ đánh đập tù nhân tàn nhẫn. Nhiều tù nhân bị đưa ra đường phố trong tình trạng bán khỏa thân, bị trói vào cột đèn đường và phải chịu cái lạnh khủng khiếp trong nhiều giờ đồng hồ. Có những trường hợp một số tù nhân bị lột sạch quần áo và phải nằm trên tuyết lạnh <ref>[http://statearchive.ru/459 № 90. Спецсообщение начальника Оперативного отдела ГУЛАГ Я. А. Иорша заместителю наркома внутренних дел С.Н.Круглову и начальнику ГУЛАГ В. Г. Наседкину о применении к заключенным Орской колонии №3 физических мер воздействия // История сталинского Гулага. Конец 1920-х — первая половина 1950-х годов. Собрание документов в 7 томах. / Отв. ред. А. Б. Безбородов, В. М. Хрусталев. Сост. И. В. Безбородова (отв. сост.), В. М. Хрусталев.. — М.: Российская политическая энциклопедия (РОССПЭН), 2004. — Т. Т: численность и условия содержания. — С. 210—211.]</ref>
 
====1939-1941====
Việc thiếu hỗ trợ kỹ thuật và thiết bị, sự vô tổ chức nói chung và nạn đói của tù nhân dẫn đến nhiều tai nạn lao động. Tuy nhiên, đa số các trại giam không chỉ thiếu máy móc và công cụ mà còn thiếu hụt nghiêm trọng các nhân viên kỹ thuật và kỹ sư có trình độ <ref>Applebaum: ''Der Gulag'', S. 250–256. Zum Fehlen beispielsweise von Ingenieuren siehe Gestwa: ''Die Stalinschen Großbauten des Kommunismus'', S. 129, 148, 153, 401, 442 f.</ref>.
Vào trước Chiến tranh thế giới thứ hai, các tài liệu lưu trữ Liên Xô cho thấy tổng tù nhân trong trại và khu di cư lên tới 1,6 triệu người năm 1939, theo V.P. Kozlov. [[Anne Applebaum]] và [[Steven Rosefielde]] ước tính rằng 1,2 đến 1,5 triệu người đã ở trong các trại tù và khu di cư hệ thống Gulag khi chiến tranh bắt đầu.
 
Sau khi Đức xâm lược Ba Lan, đánh dấu sự khởi đầu của Thế chiến thứ hai ở châu Âu, Liên Xô tấn công phía đông của Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan. Năm 1940, Liên Xô sáp nhập [[Estonia]], Latvia, Litvia, Bessarabia (nay là Cộng hòa Moldova) và Bukovina. Theo số liệu chính thức, tổng số bản án cho các tội danh chính trị và chống nhà nước (gián điệp, khủng bố) ở Liên Xô trong giai đoạn 1939–41 là 211.106. Khoảng 300,000 tù nhân chiến tranh Ba Lan đã bị Liên Xô bắt giữ trong và sau "[[Liên Xô tấn công Ba Lan|Chiến tranh phòng thủ Ba Lan]]". Hầu như tất cả các sĩ quan bị bắt và một số lượng lớn binh lính bình thường bị đưa đến Gulag.
Ngoại trừ các điều kiện bất thường (như Nội chiến Nga 1918-1920 và bạo động ở nông thôn 1930-31), phương pháp giam giữ tiêu chuẩn cho các tù nhân chống chế độ (cũng như đối với tội phạm thông thường) là tái giáo dục xã hội chủ nghĩa, phần lớn là nhờ lao động có năng suất. Đây là một thực tiễn tiêu chuẩn: những người bị kết án vào trại lao động cải tạo ở vùng sâu vùng xa của đất nước để trở lại vị trí cũ của họ (như các kỹ sư, các cán bộ đảng...) sau một khoảng thời gian<ref>Szymanski, Albert. Human Rights in the Soviet Union. London: Zed Books, 1984, p. 228</ref>
 
===1941-1945===
Tất cả Gulag được đặt dưới sự chỉ huy của NKVD của Liên bang Xô viết. Điều kiện sống trong nhiều khu khá thuận lợi, giống như quản thúc tại gia hơn là nhà tù. Trong những nhà tù này, các tù nhân được tạo cơ hội kết hợp chặt chẽ với nhau, thảo luận về mọi vấn đề chính trị diễn ra trong nước. Các tù nhân đã được cấp quyền sử dụng không hạn chế đối với sách văn học, giấy viết, và nhạc cụ, quyền nhận không giới hạn số thư tín, điện tín, để có được hiệu ứng của riêng cá nhân của họ và giữ chúng trong các phòng giam của họ, và được nhận, cùng với khẩu phần ăn chính thức của họ, hàng gửi từ bên ngoài với bất kỳ số lượng nào và có chứa bất kỳ loại hàng hoá nào (tất nhiên là trừ những loại hàng cấm)<ref>Getty & Naumov, The Road to Terror. New Haven, Conn.: Yale Univ. Press, c1999, p. 423</ref>
Sau khi [[Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại]] bùng nổ, số lượng tù nhân Gulag đã giảm mạnh vào nửa cuối năm 1941 do các vụ thả sớm hàng loạt. Điều này đặc biệt là do cuộc sơ tán hàng loạt các khu di dân và trại vào năm 1941. Trong một báo cáo năm 1944, [[Viktor Grigorievich Nasedkin]], người đứng đầu Gulag, báo cáo rằng 27 trại và 210 khu di dân phải được sơ tán. Vào tháng 7 năm 1941, Tổng cục trưởng GULAG Viktor Nasedkin và Phó Ủy viên Nhân dân Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô [[Vasily Vasilyevich Chernyshev]] báo cáo với [[Lavrenty Beria]] rằng do thiếu toa xe lửa, khoảng 20,000 tù nhân từ Tây [[Belarus]] phải sơ tán bằng đường bộ. Liên quan đến những khó khăn của cuộc di tản mà Nasedkin và Chernyshov đã đề nghị vào tháng 7 năm 1941, Beria cho khoảng 100 nghìn tù nhân (bị kết án về tội nhỏ có gia đình, phụ nữ có thai, phụ nữ có con nhỏ, trẻ vị thành niên, người tàn tật) không được di tản, và thả tự do (và những người được thả ở độ tuổi phù hợp để được nhập ngũ). Beria đồng ý với đề xuất và ghi chú rằng ông sẽ trình lên Hội đồng Dân ủy để xem xét.
 
Đề xuất của Nasedkin và Chernyshov cuối cùng không chỉ được chấp nhận mà còn được mở rộng để bao gồm các tù nhân từ các trại không di tản. Hai lệnh của Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô (ngày 12 tháng 7 và ngày 24 tháng 11 năm 1941) đã giải phóng hơn 1 triệu tù nhân khỏi các trại. 55 nghìn người già, tàn tật và phụ nữ mang thai cũng được trả tự do.
Trong hai khu trại ở Moscow, Lubyanka và Butyrka còn có cả thư viện. Những thư viện này rất đa dạng, bao gồm các tác phẩm kinh điển, bản dịch, sách lịch sử, và các tác phẩm khoa học - có vẻ nhiều hơn hẳn so với các nhà tù ở Anh quốc, hoặc các bệnh viện và tàu du lịch. Thư viện ở Butyrka đặc biệt tốt, lý do là nó đã được sử dụng cho các tù nhân chính trị trong thời Sa hoàng, và các nhà xuất bản lớn đã luôn luôn cung cấp miễn phí các bản sao sách của họ cho các nhà tù. Sách của Lubyanka phần lớn là sách được lấy từ các tù nhân để chia sẻ cho bạn tù cùng đọc<ref>Conquest, Robert. The Great Terror. New York: Oxford University Press, 1990, p. 266</ref>.
 
Kết quả là 1,2 triệu tù nhân vẫn ở trong các trại và khu di cư tính đến ngày 1 tháng 7 năm 1944. Thành phần nhân khẩu các tù nhân đã thay đổi đáng kể: tỷ lệ phụ nữ tăng lên, tỷ lệ nữ tù nhân tăng từ 7% lên 26%. Từ năm 1941 đến năm 1944, khoảng 148,000 người đã bị bắt tại các trại Gulag và khu di cư vì tội hình sự, và 10,087 tù nhân bị kết án tử hình.
Vào tháng 5 năm 1934, các quyền dân sự đã được quy định cho phạm nhân, và từ tháng 1 năm 1935, phạm nhân có quyền tham gia [[bầu cử]]. Nếu tù nhân làm việc tốt và có kỷ luật, họ gần như có các quyền như những người lao động tự do. Điều kiện lao động trong các nhà tù được kiểm soát bởi cùng một bộ luật lao động áp dụng với người lao động tự do. Những người bị kết án lao động tại GULAG được hưởng hai tuần nghỉ phép mỗi năm sau 5 tháng đầu tiên. Tiền lương trả cho các tù nhân cũng giống như những người lao động ngoài xã hội, dù ít hơn khoảng 25%, dao động trong khoảng 50 đến 60 rúp/tháng (để khấu trừ cho chi phí quản lý tù nhân, cũng như để tránh việc có những người cố ý phạm tội để được vào Gulag nhằm kiếm mức lương cao hơn). Một phần tiền lương được phát cho tù nhân để họ chi tiêu cho các nhu cầu cá nhân, một phần được đưa vào ngân hàng để khi ra trại, tù nhân sẽ có một số vốn nhất định để tái hòa nhập xã hội.
 
Trong chiến tranh, có những thay đổi trong hệ thống Gulag: 40 trại mới được mở, nhưng 69 trại cũ đã bị đóng cửa. Những người bảo vệ trại đã giảm do họ đã ra mặt trận, và tỷ lệ phụ nữ tăng lên. Tất cả 120,000 nhân viên toàn phần của Gulag đã được cử ra mặt trận (bao gồm 94,000 trong số 135,000 lính canh mà họ có). Kết quả là tỷ lệ lính gác [[bán quân sự]] từ 20 đến 40 tuổi giảm từ 86% xuống 38%, và tỷ lệ nhân viên thường xuyên của Gulag làm việc từ thời trước chiến tranh chỉ còn 20%.
Một số trại Gulag thậm chí còn không khác gì so với một [[khu công nghiệp]]. Ví dụ như một trại Gulag bên ngoài Moscow, được gọi là [[Bolshevo]]. Được thành lập dành cho trẻ em vô gia cư, nó đã trở thành một trong những trại giam tiến bộ nhất cho những thanh thiếu niên phạm tội, cả nam lẫn nữ. Khu trại có 2000 tù nhân, không có các bức tường và với rất ít lính gác, các thanh thiếu niên học nghề cùng nhau, những người ngoài sẽ có cảm giác đó như là một làng công nghiệp tuyệt vời<ref>Davis, Jerome. New Russia. New York: Công ty John Day, c 1933, p. 221-229</ref>
 
Trong chiến tranh, NKVD đã đình chỉ việc trả tự do cho các tù nhân bị kết án vì "phản quốc Tổ quốc, gián điệp, khủng bố, phá hoại, Trotskyite và cánh hữu, cướp và các tội nghiêm trọng khác chống lại nhà nước". Có khoảng 17,000 người như vậy. Đồng thời cũng quyết định tạm giữ trong các trại sau khi trả tự do cho những người bị kết án "kích động chống Liên Xô, tội ác chiến tranh nghiêm trọng, cướp và cướp có vũ trang, tái phạm, phần tử nguy hiểm cho xã hội, thành viên có gia đình của những kẻ phản bội Tổ quốc và những tội phạm đặc biệt nguy hiểm khác". Có khoảng 50,000 tù nhân như vậy. Sau khi chấp hành xong bản án, họ bị tạm giữ lại trong trại, nhưng họ được trao "quyền của những người lao động tự do và công nhân viên chức, nhưng không có quyền rời khỏi ranh giới của trại, có chỗ ở riêng biệt với tù nhân và với nhân viên của các trại".
Nạn đói trầm trọng của năm 1931-1933 đã quét qua nhiều vùng khác nhau ở [[Liên bang Xô viết]]. Trong thời gian này, người ta ước tính có khoảng từ 6 đến 7 triệu người bị chết đói <ref>{{cite book|last1=Khlevniuk|first1=Oleg|title=The History of the Gulag|date=2004|publisher=Yale University Press|location=New Haven|page=55}}</ref>. Ngày 7 tháng 8 năm 1932, một sắc lệnh mới được [[Stalin]] soạn thảo. Trong vài tháng, các vụ truy tố đã tăng gấp bốn lần. Nhìn chung, nửa đầu năm 1933 nhà tù đã thấy số lượng nhiều tù nhân mới đến hơn ba năm trước đó cộng lại.<ref>{{cite web|url=https://www2.warwick.ac.uk/fac/soc/economics/staff/mharrison/archive/persa/010fulltext.pdf|title=Theft Under Stalin: A Property Rights Analysis|last=Gorlizki|first=Yoram|date=28 June 2001|accessdate=7 March 2017}}</ref>. Tù nhân trong các trại thời kì này phải đối mặt với điều kiện làm việc khắc nghiệt. Một báo cáo của [[Liên Xô]] cho biết, vào đầu năm 1933, đến 15% số tù nhân tại Uzbekistan chết hàng tháng. Trong thời gian này, các tù nhân chỉ nhận được khoảng 300 calo (1,300 kJ) thực phẩm mỗi ngày. Nhiều tù nhân đã cố gắng chạy trốn, gây một sự bùng nổ các hành vi bạo lực, những người tìm cách bỏ trốn đều bị giết hại <ref>{{cite book|last1=Khlevniuk|first1=Oleg|title=The History of the Gulag|date=2004|publisher=Yale University Press|location=New Haven|page=61}}</ref>. Thi thể của những tù nhân đã cố gắng để vượt ngục được trưng bày trong sân của trại, và các cai ngục sẽ hộ tống tù nhân đi xung quanh các xác chết như một lời cảnh báo. Cho đến năm 1934, thiếu lương thực và sự bùng phát các bệnh tật bắt đầu làm mất ổn định hệ thống Gulag. Mãi cho đến khi nạn đói chấm dứt hệ thống này bắt đầu ổn định hơn.
 
Cũng trong thời gian chiến tranh, Gulag được bổ sung bằng các tội phạm đào ngũ, cả từ quân đội và tại những cơ quan. Trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, hành vi người lao động rời bỏ các xí nghiệp và công trường trái phép đều được người đương thời coi là "đào ngũ lao động". Về hình thức, trốn việc trái phép theo Nghị định của Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô từ ngày 26 tháng 12 năm 1941 bị phạt tù từ 5 đến 8 năm. Cuộc đấu tranh chống lại bỏ trốn lao động trái phép đã được tiến hành, phần lớn (lên đến 70-90%) những người trốn việc đã bị kết án vắng mặt, nhưng chỉ khoảng 4-5% trong số những người đso phải thi hành án. Kết quả là số người bị kết án theo lệnh của Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô ngày 26 tháng 12 năm 1941, đang thụ án tại Gulag là:
Các trại Gulag đã có một đóng góp đáng kể cho quá trình công nghiệp hóa và khai hoang các miền xa xôi của nước Nga. Ngày nay, nhiều thành phố công nghiệp vùng Bắc Cực của Nga như Norilsk, Magadan... có tiền thân chính là các trại Gulag trước đây. Tuy vậy theo bà Hannah Arendt, Liên Xô đã có thể hủy bỏ hệ thống trại cải tạo GULAG mà không gây nên hậu quả kinh tế nghiêm trọng, bà cũng cho rằng các trại giam Gulag không phải là nguồn lao động quan trọng và không có ảnh hưởng gì đáng kể đến nền kinh tế của Liên Xô <ref name="ReferenceA">Hannah Arendt ''[[The Origins of Totalitarianism]]'', Harcourt 1985 edition, at 437 – 59</ref>
* Tính đến ngày 1 tháng 1 năm 1943 - 27,541 người;
* Tính đến ngày 1 tháng 1 năm 1944 - 75,599 người;
* Vào ngày 1 tháng 1 năm 1945 - 183,321 người.
 
Do đó, Nghị định của Đoàn Chủ tịch Xô Viết Tối cao Liên Xô ngày 30 tháng 12 năm 1944 "Về việc ân xá cho những người đã tự rời khỏi các xí nghiệp công nghiệp và tự nguyện trở lại xí nghiệp này" đã miễn trách nhiệm hình sự tất cả những người đó, những người cho đến ngày 15 tháng 2 năm 1945 được trở lại lao động.
==Số người chết==
 
Vào ngày 15 tháng 4 và ngày 9 tháng 5 năm 1943, các Nghị định của Đoàn Chủ tịch Xô Viết Tối cao Liên Xô "Về việc thiết quân luật trên tất cả các tuyến đường sắt" và "Thiết quân luật về vận tải đường biển và đường sông" đã được ban hành. Do đó, việc công nhân vận tải được coi là tự ý vắng mặt và đào ngũ, theo Điều 193.7 của Bộ luật Hình sự Nga Xô có thể bị phạt tù từ 3 đến 10 năm.
Theo một nghiên cứu năm 1993 của [[Liên Xô]], tổng cộng 1.053.829 người đã chết ở Gulag từ năm 1934 đến năm 1953 (không có dữ liệu lưu trữ cho giai đoạn 1919-1934). Tuy nhiên, có tính đến khả năng lưu giữ hồ sơ không đáng tin cậy và thực tế số người chết thực tế trong các trại Gulag là cao hơn. Theo ước tính dựa trên dữ liệu từ các kho lưu trữ Liên Xô, đã có khoảng 1,6 triệu người chết trong suốt thời gian từ năm 1929 đến năm 1953. [[Golfo Alexopoulos]], giáo sư lịch sử tại Đại học South Florida, tin rằng ít nhất 6 triệu người đã chết vì bị giam giữ trong các gulag.<ref>{{Cite book|title=Illness and Inhumanity in Stalin's Gulag|last=Alexopoulos|first=Golfo|publisher=Yale University Press|year=2017|isbn=978-0-300-17941-5}}</ref>
===1945-1953===
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Gulag tiếp nhận các tù nhân từ [[Đông Âu|Đông]] và [[Trung Âu]], cũng như Áo và vùng do Liên Xô chiếm đóng tại Đức. Trong số các tù nhân mới còn có các thành viên của các nhóm dân tộc chủ nghĩa gồm người Ba Lan, người Ukraine, người Latvia và người Litva. Sau khi Đông Âu được giải phóng khỏi quân Đức, người ta đã quyết định sử dụng các [[Trại tập trung của Đức Quốc xã|trại tập trung]] đã được giải phóng để giam giữ các tù nhân chiến tranh và các tù nhân khác. Các trại tập trung trước đây gồm [[Stalag IV-B|Mühlberg]], [[trại Fünfeichen|Neubranderburg]], [[Trại tập trung Gross-Rosen|Bautzen]] và [[Trại tập trung Sachsenhausen|Oranienburg]] được tái sử dụng. Trong trại tập trung khét tiếng của [[Đức Quốc xã]], trại [[Trại tập trung Buchenwald|Buchenwald]], [[trại đặc biệt NKVD tại Đức (1945-1950)|trại đặc biệt NKVD]] [[trại đặc biệt NKVD số 2|số 2]] dành cho những người bị giam giữ được thành lập vào tháng 8 năm 1945. Theo dữ liệu lưu trữ của Liên Xô, từ năm 1945 đến năm 1950, có 28,455 tù nhân bị giam giữ, trong đó có 7,113 người đã chết.
 
Do việc tổ chức lại các Bộ Dân ủy thành các Bộ, Tổng cục các trại lao động cải huấn và di dân trở thành một bộ phận của [[Bộ Nội vụ Liên Xô]] vào tháng 3 năm 1946. Sau khi các trại tập trung cũ của Đức Quốc xã bị giải tán, nó đã được quyết định sử dụng một số tài sản và thiết bị trong hệ thống Gulag, đặc biệt là thiết bị nghiên cứu. [[Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô]] ban hành sắc lệnh ngày 21 tháng 2 năm 1948 "Về việc tổ chức các trại và nhà tù với một chế độ nghiêm ngặt để giam giữ những tội phạm nhà nước đặc biệt nguy hiểm [và đưa họ đến các vùng xa xôi của Liên Xô sau khi chấp hành xong bản án được tái định cư] "dành cho" gián điệp, khủng bố, Trotskyists, cánh hữu, Mensheviks, Cách mạng xã hội, người theo [[chủ nghĩa vô chính phủ]], người theo chủ nghĩa dân tộc, người di cư da trắng và thành viên của các tổ chức và nhóm chống Liên Xô khác", các [[trại đặc biệt Bộ Nội vụ Liên Xô|trại đặc biệt]] được lập trong hệ thống Gulag ([[Steplag]], [[Minlag]], [[Dubrovlag]], [[Ozerlag]], [[Berlag]]). Các tù nhân phải đeo số trên quần áo của họ.
===1953-1960===
Ngày 27 tháng 3 năm 1953, Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô ra sắc lệnh ân xá. Trong vòng ba tháng tiếp theo, gần một nửa số tù nhân trong trại (khoảng 1,200,000 trong số 2,500,000) người đã chấp hành án tù dưới bốn năm đã được thả.
 
Việc thả các tù nhân "chính trị" theo dự kiến ​​nhưng không được thực hiện đã dẫn đến các cuộc nổi dậy tập thể ([[Khởi nghĩa Vorkuta]], [[Nổi dậy Norilsk]], [[Khởi nghĩa tù nhân Kengir]]). Những sự kiện này đã thúc đẩy việc tạo ra các ủy ban để xem xét các trường hợp tù nhân "chính trị". Trong vòng hai năm (từ đầu năm 1954 đến đầu năm 1956), số tù nhân "chính trị" ở Gulag giảm từ 467,000 xuống 114,000, tức là giảm 73%. Vào đầu năm 1956, lần đầu tiên sau hai mươi năm, tổng số tù nhân chỉ còn dưới một triệu.
 
Quyền tài phán của GULAG được thay đổi chỉ một lần sau năm 1934: vào tháng 3 năm 1953 nó được chuyển giao cho [[Bộ Tư pháp Liên Xô]], nhưng vào tháng 1 năm 1954 nó được trả lại cho Bộ Nội vụ Liên Xô.
 
Sự thay đổi tổ chức tiếp theo trong hệ thống hình sự Liên Xô là việc thành lập vào tháng 10 năm 1956 của Tổng cục di dân lao động cải huấn, vào tháng 3 năm 1959 được đổi tên thành Tổng cục Quản lý trại giam.
 
Trong quá trình phân chia NKVD Liên Xô thành hai cơ quan Nội chính riêng biệt - NKVD Liên Xô và NKGB Liên Xô - cơ quan này được đổi tên thành Cục Quản lý Nhà tù NKVD Liên Xô. Năm 1954, theo nghị định của Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, Cục Quản lý Nhà tù được chuyển đổi thành Cục Nhà tù thuộc Bộ Nội vụ Liên Xô. Tháng 3 năm 1959, Cục Nhà tù được tổ chức lại và nằm trong hệ thống của Tổng cục Quản lý Trại giam của Bộ Nội vụ Liên Xô.
 
Cơ sở giáo dục Gulag đã bị đóng cửa theo lệnh MVD số 020 ngày 25 tháng 1 năm 1960, nhưng các khu di cư lao động cưỡng bức dành cho các tù nhân chính trị và hình sự vẫn tiếp tục tồn tại. Các tù nhân chính trị tiếp tục bị giam giữ tại một trong những trại nổi tiếng nhất [[Perm-36]] cho đến năm 1987 khi nó bị đóng cửa.
==Cấu trúc==
 
==Điều kiện sống trong các trại==
Điều kiện sống và làm việc trong các trại khác nhau đáng kể theo thời gian và địa điểm, trong đó tùy thuộc ảnh hưởng của các sự kiện lớn hơn ([[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]], nạn đói và sự thiếu hụt trên toàn quốc, số lượng tù binh bị bắt giữ, nhập hay thả số lượng lớn các tù nhân).
 
Trung bình mỗi năm có khoảng 600.000 người ở trong các trại Gulag (cao điểm là vào năm 1937-38 đạt 1,7 triệu người), tức là khoảng 0,4% dân số Liên Xô. Tỷ lệ này thực tế là không cao, để so sánh, năm 1978, số người da đen ở Mỹ là 23 triệu người, trong đó khoảng 200.000 (khoảng 0,9%) đã từng bị tống giam<ref>Szymanski, Albert Human Rights in the Soviet Union. London: Zed Books, 1984, p. 246</ref>
 
Theo một nghiên cứu năm 1993 từ kho lưu trữ của Liên Xô, tổng cộng 1.053.829 người đã chết vì bệnh tật trong các Gulag trong suốt 20 năm (1934-1953)<ref name="autogenerated1" /> Các dữ liệu hoàn thành đưa số người chết trong khoảng thời gian này lên 1.258.537<ref>Steven Rosefielde. Red Holocaust. Routledge, 2009. ISBN 0415777577 pg. 67 "...more complete archival data increases camp deaths by 19.4 percent to 1,258,537</ref> Nếu chia bình quân thì trung bình mỗi năm, khoảng 60.000 tù nhân chết trong Gulag do mọi nguyên nhân. Nhưng trong thời kỳ [[Thế chiến thứ 2]], tù nhân của Gulag tăng đột biến tỷ lệ chết trong giai đoạn 1941–1943. Vào mùa đông 1941, khoảng 20% số tù nhân ở Gulag đã chết vì đói và lạnh hoặc do thiếu thuốc men, bởi lương thực và quần áo phải được chuyển bớt cho quân đội để chống Đức Quốc Xã, khoảng 516.841 tù nhân chết trong các trại gulag trong giai đoạn 1941-43.<ref>Zemskov, Gulag, Sociologičeskije issledovanija, 1991, No. 6, pp. 14-15</ref>. Nhưng đó là tình cảnh khó khăn chung của Liên Xô khi ấy (hàng triệu dân thường Nga cũng chết vì đói rét trong 3 năm đó, do nông nghiệp Liên Xô bị quân Đức tàn phá). Nếu loại bỏ số tù nhân chết trong giai đoạn 1941-1944 bởi nguyên nhân khách quan là chiến tranh với Đức quốc xã, thì số tù nhân Gulag chết mỗi năm là khoảng 40.000 người, chiếm khoảng 3% số phạm nhân. So sánh với tỷ lệ tử vong trung bình của người dân nước Nga thời kỳ đó (khoảng 2 - 2,5% mỗi năm), thì tỷ lệ chết như vậy không cao hơn là bao. Tỷ lệ này cũng chỉ xấp xỉ tỷ lệ chết của lính Đức trong trại tù binh của Pháp năm 1940 (khoảng 2,58%) và kém rất xa tỷ lệ chết của lính Nga trong các trại tù binh của Quốc Xã trong thế chiến 2 (khoảng 30% mỗi năm).
 
Vào tháng 5 năm 1934, các quyền dân sự đã được quy định cho phạm nhân, và từ tháng 1 năm 1935, phạm nhân có quyền tham gia [[bầu cử]]. Nếu tù nhân làm việc tốt và có kỷ luật, họ gần như có các quyền như những người lao động tự do. Điều kiện lao động trong các nhà tù được kiểm soát bởi cùng một bộ luật lao động áp dụng với người lao động tự do. Những người bị kết án lao động tại GULAG được hưởng hai tuần nghỉ phép mỗi năm sau 5 tháng đầu tiên. Tiền lương trả cho các tù nhân cũng giống như những người lao động ngoài xã hội, dù ít hơn khoảng 25%, dao động trong khoảng 50 đến 60 rúp/tháng (để khấu trừ cho chi phí quản lý tù nhân, cũng như để tránh việc có những người cố ý phạm tội để được vào Gulag nhằm kiếm mức lương cao hơn). Một phần tiền lương được phát cho tù nhân để họ chi tiêu cho các nhu cầu cá nhân, một phần được đưa vào ngân hàng để khi ra trại, tù nhân sẽ có một số vốn nhất định để tái hòa nhập xã hội.
 
Vào cuối những năm 1940, do Liên Xô đã khôi phục được kinh tế đất nước, số người chết mỗi năm trong các trại Gulag vì nhiều lý do khác nhau là rất ít, không quá 15.000 người/năm, tỷ lệ chết không quá 1%<ref>http://www.northstarcompass.org/nsc9912/lies.htm</ref>. Theo những câu chuyện tuyên truyền chống Liên Xô, đặc biệt là trong [[chiến tranh Lạnh]], các trại lao động Xô viết được truyền thông phương Tây mô tả hầu hầu như giống như các trại tập trung của Hitler: ''"tù nhân bị hành hạ và chết như ruồi"''. Thực ra, các trại Gulag chỉ giống như một trại lao động tập thể, nơi phạm nhân lao động công ích 10 giờ mỗi ngày, và hoàn toàn không có chuyện tù nhân bị ép lao động đến chết.<ref>Werth, Alexander. Russia, The Post-War Years. New York: Taplinger Pub. 1971, p 30</ref>
 
==Chú thích==
{{tham khảo|230em}}
 
==Liên kết ngoài==
{{commonscatThể loại Commons|Gulag}}
* [http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2012/11/121120_soviet_stalin_novel.shtml Một ngày trong trại lao cải thời Xô Viết], BBC, 20 tháng 11 năm, 2012
* [http://gulaghistory.org GULAG: Many Days, Many Lives, Online Exhibit, Center for History and New Media, George Mason University]
* [http://www.osa.ceu.hu/gulag/ Gulag: Forced Labor Camps, Online Exhibition, Open Society Archives] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20051001071516/http://www.osa.ceu.hu/gulag/ |date = ngày 1 tháng 10 năm 2005}}
* [http://www.gmig.ru/state-gulag-museum/ The website of the State Museum of GULAG History] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20111120162935/http://www.gmig.ru/state-gulag-museum/ |date = ngày 20 tháng 11 năm 2011}} in Moscow
* [http://www.gulagmuseum.org/start.do The website of the Virtual Gulag Museum] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20110817140742/http://www.gulagmuseum.org/start.do |date=2011-08-17 }} projected by the scientific information center Memorial
* [http://museum.gulagmemories.eu/en Sound Archives. European Memories of the Gulag]
* [http://digitalgallery.nypl.org/nypldigital/dgkeysearchresult.cfm?parent_id=288285&word= Gulag prisoners at work, 1936-1937] Photoalbum at NYPL Digital Gallery
* [http://www.loc.gov/exhibits/archives/gula.html The GULAG], Revelations from the Russian Archives at [[Thư viện Quốc hội Mỹ(Hoa Kỳ)|Library of Congress]]
* [http://www.realworldpictures.ca GULAG 113] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20190227182540/http://www.realworldpictures.ca/ |date = ngày 27 tháng 2 năm 2019}}, Canadian documentary film about Estonians in the GULAG, website includes photos video.
{{Portal bar|Liên Xô|Pháp luật}}
 
[[Thể loại:LiênIosif Vissarionovich Stalin]]
[[Thể loại:Đàn áp chính trị ở Liên Xô]]
[[Thể loại:GiamĐàn giữáp bất đồng chính kiến ở Liên Xô]]
[[Thể loại:Lao động cưỡnghình bứcsự]]
[[Thể loại:Áp bức chính trị]]
[[Thể loại:Trại tập trung|Liên Xô]]
[[Thể loại:Gulag| ]]
[[Thể loại:Stalin]]
[[Thể loại:Lịch sử Liên Xô]]
[[Thể loại:Nhà tù Liên Xô]]
[[Thể loại:Bộ Dân ủy Nội vụ]]
[[Thể loại:Từ ngữ Liên Xô]]
[[Thể loại:Trại tập trung|Liên Xô]]
[[Thể loại:Vi phạm nhân quyền ở Liên Xô]]