Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Gia Long”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao |
Task 3: Thực hiện tác vụ Sửa lỗi chung (GeneralFixes2) theo yêu cầu trong hàng chờ (#TASK3QUEUE) Thẻ: Liên kết định hướng |
||
(Không hiển thị phiên bản của một người dùng khác ở giữa) | |||
Dòng 138:
Tháng 12, Nguyễn Nhạc sai Long Nhương tướng quân [[Nguyễn Huệ]] đem quân vào đánh. Quân Tây Sơn đánh thắng lẫy lừng trong [[trận Rạch Gầm – Xoài Mút]]. Chỉ một trận quyết chiến diễn ra không đầy một ngày đã tiêu diệt gần 2 vạn quân Xiêm cùng mấy ngàn quân Nguyễn Ánh, chỉ sót vài nghìn người<ref name="harvnb16">{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=125-126}}.</ref><ref>{{harvnb|Phan Khoang|2001|pp=517-518}}.</ref> chạy theo đường thượng đạo trốn về nước. Từ sau vụ việc này, Nguyễn Ánh không còn trông mong gì vào Xiêm nữa vì ''"họ (Xiêm La) sợ quân Tây Sơn như sợ cọp".''<ref name="harvnb16" /><ref name="autogenerated8" />
Trong tập Kỷ yếu Hội nghị khoa học lịch sử nhân kỷ niệm 200 năm ngày chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút tại Tiền Giang vào tháng 12-1984, trong đó bài tham luận của nhà sử học [[Phan Huy Lê]] đánh giá, nhận xét như sau:<ref>Kỷ yếu Hội nghị khoa học
:''"Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Xiêm được bọn phong kiến phản bội Nguyễn Ánh tiếp tay, là cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân
Các tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương chạy theo đường núi [[Chân Lạp]] mà về Xiêm. Nguyễn Ánh cùng Lê Văn Duyệt trốn đi [[Trấn Giang]] với vài chục người. Nguyễn Ánh sai Mạc Tử Sinh và Cai cơ Trung (cậu Châu Văn Tiếp) sang Xiêm trước báo tin, còn mình thì theo đường thủy qua đảo Thổ Châu<ref name="tt198">{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=198}}.</ref> rồi về Cổ Cốt với một nhóm nhỏ quân tướng.<ref name="autogenerated8" /> Thời gian này, cuộc sống của Nguyễn Ánh khốn khổ đến mức [[Nguyễn Văn Thành (quan nhà Nguyễn)|Nguyễn Văn Thành]] phải đi làm ăn cướp nuôi chủ và bị đánh suýt mất mạng.<ref>Nguyễn Khắc Thuần (2005), Danh tướng Việt Nam, tập 3, Việt Nam: Nhà Xuất bản Giáo dục, tr. 195</ref>
Dòng 161:
Tuy nhiên Hiệp ước Versailles vẫn trở thành một di họa đối với [[Việt Nam]]. Về sau, Pháp đã dựa vào hiệp ước này để làm cớ yêu cầu [[nhà Nguyễn]] cắt đất, và sau đó xâm lược Việt Nam vào năm [[1858]]. Giáo sư [[Trần Văn Giàu]] nhận xét:<ref>{{Chú thích web |url=http://tuanbaovannghetphcm.vn/luan-ve-nhung-nguyen-nhan-viet-nam-mat-nuoc-ve-tay-phap/ |ngày truy cập=2023-01-09 |tựa đề=Luận về những nguyên nhân Việt Nam mất nước về tay Pháp |archive-date=2017-10-02 |archive-url=https://web.archive.org/web/20171002215439/http://tuanbaovannghetphcm.vn/luan-ve-nhung-nguyen-nhan-viet-nam-mat-nuoc-ve-tay-phap/ |url-status=dead }}</ref>
:''...đúng là sĩ quan Pháp đã giúp nhiều cho Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn. Cho nên trong triều đình [[Huế]], đến khi Gia Long lên ngôi, vẫn còn thấy mấy quan đại thần mắt xanh tóc đỏ. Khỏi phải nói trắng ra, các quan đại thần đó như Dayot, Chaigneau,
Sau này tác giả Faure chép truyện Bá Đa Lộc, có nuối tiếc rằng nếu Hiệp ước được Pháp thực hiện thì quân Pháp có thể chiếm được Việt Nam sớm hơn mấy chục năm:
:''
==Về nước và củng cố thế lực==
Dòng 250:
Trong thư gửi cho M. Létondal ngày 14/9/1791, giám mục [[Bá Đa Lộc]] viết:
::''
==Chiến tranh thống nhất (1790-1802)==
Dòng 261:
Sau khi chiến thắng quân Thanh, vua [[Nguyễn Huệ|Quang Trung]] chuẩn bị phối hợp với Nguyễn Nhạc đem quân vào Nam đánh Gia Định nhằm triệt để đánh bại thế lực của Nguyễn Ánh, thu phục miền Nam bộ và thống nhất đất nước. Quang Trung dự định phát động chiến dịch rất lớn, huy động hơn 20<ref>{{harvnb|Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng|1976|p=323}}.</ref>-30 vạn<ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|p=258}}.</ref> quân thủy bộ, chia làm ba đường. Chính các [[giáo sĩ]] Pháp giúp Nguyễn Ánh lúc đó cũng rất lo lắng và dự liệu Nguyễn Ánh khó lòng chống lại được Tây Sơn trận này. Trong thư gửi cho M. Létondal ngày 14/9/1791, giám mục Bá Đa Lộc viết:
:''
Tuy nhiên vận may lại đến với Nguyễn Ánh khi vua [[Quang Trung]] đột ngột qua đời ([[1792]]), con là [[Nguyễn Quang Toản]] còn nhỏ tuổi lên nối ngôi, hiệu là Cảnh Thịnh. Quang Toản còn quá nhỏ (9 tuổi) nên không đủ sức lãnh đạo, khiến cho Tây Sơn bắt đầu khủng hoảng và chia rẽ.<ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=276-277}}.</ref> Loạn lạc liền nổ ra ở Bắc Hà: sĩ phu trung thành với [[nhà Lê]] nổi lên tôn [[Lê Duy Cận]] ([[Đại Nam thực lục|Thực lục]] ghi là Lê Duy Vạn, con [[Lê Hiển Tông]]) làm minh chủ, Duy Cận liên lạc với Nguyễn Ánh để cùng đánh Tây Sơn,<ref>{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=535}}.</ref> việc này góp phần làm cho [[nhà Tây Sơn]] nhanh chóng suy yếu. Nội bộ Tây Sơn xảy ra tranh chấp, quyền hành rơi vào tay ngoại thích [[Bùi Đắc Tuyên]].<ref name="harvnb24">{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|pp=155}}.</ref> Nguyễn Nhạc lại nghi ngờ Quang Toản, càng tạo thuận lợi cho Nguyễn Ánh.<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=261}}.</ref> Nhân vào thế đó, Nguyễn Ánh ra sức mở các đợt tấn công ra [[Quy Nhơn]] theo nguyên tắc đã định trước đó: ''"Gặp nồm thuật thì tiến, vãn thì về, khi phát thì quân lính đủ mặt, về thì tản ra đồng ruộng".''<ref>{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|pp=280-281}}.</ref>
Dòng 320:
Không chỉ tru di gia tộc của vua nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh còn truy sát cả dòng họ của một số danh tướng nhà Tây Sơn. Trong bút ký "Còn mãi đến bây giờ". Hoàng Phủ Ngọc Tường ghi rằng nhánh họ Bùi của nữ tướng [[Bùi Thị Xuân]] đã bị Gia Long giết sạch. Dòng họ của tướng [[Trần Quang Diệu]] bị truy sát, con cháu của ông phải dùng cách ''"sanh vi Nguyễn, tử vi Trần"'', tức là đổi họ từ Trần sang Nguyễn, nhưng khi mất sẽ ghi trên bia mộ là họ Trần (để nhắc nhở con cháu về dòng họ đích thực của tổ tiên).
Không chỉ trả thù những người theo nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh còn truy sát cả những người họ hàng rất xa (đã cách nhau cả chục đời) của Nguyễn Huệ. Theo sách ''"Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung"'' của PGS sử học [[Đỗ Bang]], thời kỳ đầu khi Gia Long lên ngôi, đã chỉ dụ cho dân địa phương ở xã Hưng Nguyên, tỉnh [[Nghệ An]] (nơi cụ tổ 10 đời của anh em nhà Tây Sơn từng sống vào 200 năm trước đó) rằng: ''
Việc làm này của ông về sau bị sử sách nói nhiều đến mức độ thiên lệch cả về công và tội của Nguyễn Ánh. Theo phân tích của các sử gia, cuộc báo thù này có nhiều nguyên nhân:
* Trả thù cho những việc Tây Sơn đã làm với các chúa Nguyễn là gia tộc của Nguyễn Ánh: Chúa Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Dương cùng các vương thất họ Nguyễn đều bị Tây Sơn truy sát và giết hại. Nguyễn Ánh còn tuyên bố rằng Tây Sơn đã quật lăng mộ tám chúa Nguyễn và lấy hài cốt ném xuống sông (điều này vẫn còn là nghi vấn).
* Trả thù cho những việc Tây Sơn đã làm với bản thân Nguyễn Ánh trước kia: quật lăng mộ của cha ông là Nguyễn Phúc Luân và lấy hài cốt ném xuống sông, các anh em ruột của ông là [[Nguyễn Phúc Đồng]], [[Nguyễn Phúc Điển]], các anh em họ như [[Nguyễn Phúc Hạo]], [[Nguyễn Phúc Mân]] đều bị quân Tây Sơn giết chết, em họ ông là công chúa [[Nguyễn Phúc Ngọc Tuyền]] phải tự sát khi bị quân Tây Sơn làm nhục, và cả những nỗi khổ sổ trong những ngày tháng lênh đênh trốn chạy.<ref name="ctt"/><ref>{{harvnb|Oberdorfer|2001|p=203}}.</ref><ref name="vnk2"/>
* Dùng cuộc trả thù để tỏ rõ uy thế, làm khiếp sợ và buộc những người chống đối (ở đây chủ yếu là các cựu thần [[nhà Hậu Lê|Lê]]-[[Chúa Trịnh|Trịnh]]) phải quy thuận trước vương triều mới.{{efn|{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|pp=285-286}} sách 54 vị Hoàng đế Việt Nam, do Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân ấn hành (có dẫn ở phần thư mục) ghi như sau ''..Trước những hành động như vậy, sách sử xưa nay nói nhiều về chính sách hành động cứng rắn của vua Gia Long, nhiều đến mức thiên lệch cả ý kiến khen chê ông vua khai sáng triều Nguyễn. Gia Long đã tìm cách xóa cho kỳ hết những dấu tích về triều Tây Sơn, nhất là đối với [[Quang Trung]], người mà đương thời đã được dân tộc tôn vinh với chiến công huy hoàng trong việc đánh đuổi quân xâm lược [[Mãn Thanh]]. Sự tàn bạo này đã phá hủy gần như toàn bộ di sản văn hóa lịch sử triều Tây Sơn, một triều đại tuy ngắn ngủi nhưng đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong [[thế kỷ XVIII]] với nhiều biến cố lịch sử khác thường. Tuy nhiên, phải chăng Gia long xóa sạch dấu vết của nhà Tây Sơn chỉ vì trả thù cá nhân? Chắc hẳn vị vua này không thiển cận như thế? Tất nhiên, Tây Sơn bị trả thù vì những năm tháng lênh đênh phiêu bạt, vì sự tan nát vương nghiệp của các chúa Nguyễn cũng được xem là một lý do. Nhưng còn có một lý do sâu xa hơn, đó là chọn một giải pháp tối ưu cho vương triều ông mới thành lập. Triều Tây Sơn mà Gia Long gọi là giặc Tây cũng là kẻ thù của vương triều Lê-Trịnh. Dù vương triều này đã sụp đổ nhưng các cựu thần của vương triều cũ vẫn còn rải rác khắp nơi. Trừng phạt nghiêm khắc triều Tây Sơn còn để giương cao uy vũ, cảnh báo và khống chế mọi thế lực đối lập phải quy thuận theo vương triều mới. Thực tế cho thấy, sau khi vua [[Quang Trung]] mất, Tây Sơn đã sụp đổ, lực lượng còn lại quá bé nhỏ, nội bộ thì lục đục, đem quân đánh nhau, vua trẻ Quang Toản còn nhỏ tuổi, điều này đâu có đáng phải lo sợ để ra quá tay tàn bạo? Tàn dư của triều Tây Sơn là không đáng kể nhưng Gia Long vẫn thẳng tay đàn áp vì một lần giương cung, bắn tên, nhà vua đã đạt được hai mục đích: trả thù và kiềm chế, răn đe những lực lượng muốn trỗi dậy để phục hưng chống lại vương triều mới....''}} Có lẽ vì vậy, Nguyễn Ánh không hề tìm cách che đậy sự tàn bạo của mình trong việc này. Ông tuyên bố: ''"Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh [[Xuân Thu]]"'' (theo tích [[Công Dương truyện]], [[
Trong các đánh giá về sau về sự việc này, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Ánh đã thực hiện trả thù quá tay, giết hại nhiều người không liên quan và "đôi lúc rất tiểu nhân".<ref name="vnk2">{{harvnb|Vũ Ngọc Khánh|2008|p=143}}.</ref><ref name="nkt"/>
Dòng 332:
==Lên ngôi hoàng đế==
Trước năm 1802, các chúa Nguyễn (và kể cả Nguyễn Ánh) tuy cai trị Đàng Trong độc lập nhưng trên danh nghĩa họ vẫn coi vua Lê là chính thống của nước Việt; ngay cả khi quân Thanh xâm lược, Nguyễn Ánh vẫn ủng hộ [[Lê Chiêu Thống]] như
Sau khi đánh bại Tây Sơn, việc phải xử trí với nhà Lê là một vấn đề hết sức khó xử đối với Nguyễn Ánh, bởi nếu lên ngôi vua thì ông ta sẽ mang tiếng là ''"phản nghịch, bề tôi cướp ngôi"''. Cuối cùng, Nguyễn Ánh vẫn quyết định lên ngôi hoàng đế. Ngày 5/1/1802, Nguyễn Ánh làm lễ tế trời đất để lên ngôi, đặt niên hiệu là Gia Long, ra chiếu tuyên cáo đế vị với thiên hạ: ''
Gia Long lên ngôi là nhờ chiến thắng sau cuộc nội chiến với nhà Tây Sơn chứ không phải bằng một chiến thắng chống giặc ngoại xâm lẫy lừng như các vương triều trước. Sự lên ngôi không đủ chính danh là một trở lực không nhỏ trong việc cai trị. Ở Bắc Hà, tư tưởng hoài Lê vẫn còn in đậm trong tâm tư của số đông dân chúng. Đặc biệt là trong đội ngũ sĩ phu, quan lại Bắc Hà khi lực lượng này vẫn xem nhà Lê là chính thống, còn họ Nguyễn chỉ là
:''
Ở phía Nam thì nhiều người lại nhớ về [[nhà Tây Sơn]]. Hành động trả thù nhà Tây Sơn một cách thái quá của Nguyễn Ánh đã tạo ra những ấn tượng xấu. Gia Long đã không đủ rộng lượng để vượt qua được những hận thù của dòng họ để có một cái nhìn hướng đến
==Chính sách và cai trị==
Dòng 405:
===Chính sách xã hội===
[[Tập tin:Imperial Academy of Hue.jpg|240px|nhỏ|trái|[[Quốc Tử Giám (Huế)|Quốc Tử Giám tại Huế]], một trong những công trình đầu tiên Gia Long cho xây dựng để phát triển lại giáo dục thời hậu chiến. Dưới thời vua Gia Long, [[Minh Mạng]], Quốc Tử Giám được xây tại địa phận An Ninh Thượng, huyện [[Hương Trà]], cách kinh thành [[Huế]] chừng 5 km về phía tây, trường nằm cạnh [[
Thấy các quan đầu triều của mình đều chỉ là quan võ, Gia Long lưu ý đến việc học hành thi cử trong nước để tuyển lựa quan văn. Ông tổ chức lại các [[
Về luật pháp, Gia Long cho soạn bộ luật mới có tên gọi là [[Hoàng Việt luật lệ]] (còn được gọi là "luật Gia Long"), do Tổng trấn Bắc Thành [[Nguyễn Văn Thành (quan nhà Nguyễn)|Nguyễn Văn Thành]] chủ biên bao gồm 22 quyển và 398 điều,<ref name="harvnb44">{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|p=283}}.</ref> bộ luật này, dù có đôi chỗ cải biến, gần như chép nguyên mẫu từ luật của [[nhà Thanh]]<ref name="harvnb77"/> cho nên nhìn tổng thể khá khắc nghiệt và không được tiến bộ như bộ [[luật Hồng Đức]] của [[nhà Hậu Lê|nhà Lê]].<ref name="Nguyễn Khắc Thuần 2005 306"/>
Dòng 473:
;Vạn Tượng
[[Tập tin:Tonkin1893.jpg|nhỏ|phải|250 px|Bản đồ Thân vương quốc Muang Phan, sử Việt gọi là phủ Trấn Ninh. Nay thuộc tỉnh Xiêng Khoảng, Lào. Đây là một tiểu quốc tự trị xưng thần cho cả triều đình Việt Nam ở phía đông và Vạn Tượng (Vientine) phía tây. Năm 1802, vua Gia Long đã đem đất này
Đối với Vạn Tượng, Việt Nam và Xiêm La hình thành một thế giằng co ảnh hưởng: vua [[Vạn Tượng]] [[Inthavong]] trước kia có cùng hỗ trợ Gia Long đánh Tây Sơn thường tỏ ra ngả về phía Việt Nam nhiều hơn là phía Xiêm dù lúc này cả Xiêm và Việt Nam đều đang có ảnh hưởng tại [[Vạn Tượng]].<ref name="mp100105" /> Gia Long đưa ra nhiều chính sách chiêu dụ Inthavong: tại Việt Nam, Inthavong được đón tiếp dưới danh hiệu [[vua|quốc vương]], trong khi ở Xiêm ông vua này chỉ được gọi là Chao (lãnh chúa); và vào khoảng năm [[1802]] Gia Long công nhận quyền cai trị của Inthavong trên đất [[Xiengkhuang|Xiang Khouang]].<ref name="mp100105" /> Vị vua nối ngôi của Inthavong là [[Anouvong|Chao Anou]] cũng tiếp tục chính sách tương tự, và Việt Nam tuy vẫn đối xử tốt với [[Vạn Tượng]] nhưng vẫn vị nể Xiêm trong vấn đề về Anou.<ref name="mp100105">{{harvnb|Mayurī Ngaosīvat & Pheuiphanh Ngaosyvathn|1998|p=98-100}}.</ref>
Năm [[1802]], Gia Long còn đem đất [[Trấn Ninh]] phong cho [[Vương quốc Viêng Chăn|vương quốc Vạn Tượng]] của A Nỗ ([[Anouvong]]). Phủ Trấn Ninh gồm 8 huyện ở phía tây tỉnh [[Nghệ An]] (chưa rõ bao nhiêu dặm, nhưng ước chừng lớn gấp đôi tỉnh [[Nghệ An]] hiện nay){{fact}}. Đời [[Lê Thánh Tông]] đánh phá [[Ai Lao]] đã lấy đất đặt làm phủ này
===Chính sách thuế khóa===
Dòng 580:
Một nguyên nhân khiến nhiều cuộc nổi dậy xảy ra là do chính sách thuế khóa và lao dịch. Một giáo sĩ người Pháp tên Guérard nhận xét rằng Gia Long đánh thuế quá nặng lên dân chúng: ''"Vua Gia Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách, sự bất công và lộng hành làm cho người ta rên xiết hơn cả ở thời Tây Sơn; thuế má và lao dịch thì tăng lên gấp ba".''<ref name="đượclsvn16" /> Việc xây thành [[Phú Xuân]] và đào [[kênh Vĩnh Tế]] phải huy động hàng vạn dân phu đi lao dịch. Một người Pháp là Borel viết năm [[1818]] mô tả việc xây thành [[Phú Xuân]] (Huế):
:''
Chỉ mấy năm sau khi Gia Long lên ngôi, nhà truyền giáo Bissachere viết: ''
:''
Đối với người dân tộc thiểu số, vua Gia Long đã ban hành các loại thuế đánh vào lâm thổ sản ở vùng người dân tộc, làm cho ''"dân Man quanh năm nộp thuế không lúc nào rỗi"''.<ref name=autogenerated12 /> Hậu quả là ''"dân phải nhặt củ rau và quả ở núi để ăn cho no bụng".''<ref name=autogenerated14 /> Các vua đầu thời Nguyễn còn cưỡng bách văn hóa một số dân tộc khi cho rằng: ''Bọn man mọi ngu dại chưa thấm nhuần phong hóa, cần buộc họ cắt tóc, ăn mặc và sinh hoạt giống như người miền xuôi.''<ref>''Việt Nam thế kỷ XIX'' ([[1802]]-[[1884]]), tr. 221.</ref>
Sự tham nhũng của quan lại cũng là một nguyên nhân, như Chaigneau người Pháp đã ghi lại năm [[1807]]: ''
Để đối phó, Gia Long đã ra sức đánh dẹp, thi hành nhiều chính sách vỗ an và cử nhiều tướng tài như [[Lê Chất]], [[Lê Văn Duyệt]] lưu đóng ở khu vực Bắc thành nhiều năm nhưng vẫn không sao hết được.<ref name="npq131138"/> Ở các khu vực miền Trung, các phong trào nổi dậy chủ yếu chỉ mang tính lẻ tẻ,<ref>{{harvnb|Nguyễn Phan Quang|2004|p=138}}.</ref> tuy cũng có phong trào lớn như là [[Nổi dậy ở Đá Vách|cuộc nổi dậy của người Thượng ở Đá Vách]] kéo dài qua tận các đời vua sau.<ref>{{harvnb|Nguyễn Phan Quang|2004|p=139-142}}.</ref>
Dòng 655:
==Qua đời==
{{xem thêm|Lăng Gia Long}}
[[Tập tin:Án thờ Gia Long.jpg|nhỏ|phải|200px|Hương án thờ vua Gia Long trong [[
[[Tập tin:MausoléeGiaLong.JPG|nhỏ|phải|200px|Phần tẩm mộ của [[Thiên Thọ Lăng]], đằng sau hai vòng bửu thành là phần mộ kép của Gia Long và [[Tống Phúc Thị Lan|Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu Tống Thị Lan]] ([[1762]] - [[1814]])]]
Tháng 11 năm [[Mậu Dần]] ([[1818]]), Gia Long lâm bệnh,<ref name="harvnb42"/> ông hạ chiếu cho Thái tử [[Minh Mạng|Nguyễn Phúc Đảm]] thay ông quyết việc nước và cho gọi hai đại thần là [[Lê Văn Duyệt]] và [[Phạm Đăng Hưng]] đến hầu. Ông dặn Thái tử Đảm ''"Đấy là cơ nghiệp gian nan của trẫm, nay giao cho con, con nên cẩn thận giữ gìn... Ta cũng sắp chết, không nói gì, chỉ có một việc là ngày sau phải cẩn thận chớ nên gây hấn ngoài biên".''<ref name="harvnb42"/> Rồi Gia Long sai Thái tử Đảm chép lại lời mình, Nguyễn Phúc Đảm chép một cách ngập ngừng ý muốn bỏ chữ "[[băng hà|băng]]", Gia Long cầm bút viết luôn chữ đó vào.<ref>{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|p=284-285}}.</ref>
Dòng 661:
Bệnh ngày càng nặng dần, và Gia Long cố gắng giấu điều này.<ref name="Wilcox2010">{{chú thích sách|author=Wynn Wilcox|title=Vietnam and the West: New Approaches|url=http://books.google.com/books?id=EvqKqpSCpaEC&pg=PA43|year=2010|publisher=SEAP Publications|isbn=978-0-87727-782-8|pages=43–}}</ref> Đây cũng là một trong nhiều nguyên nhân Gia Long bí mật triệu bác sĩ [[Treillard]] của tàu buôn Pháp ''Henri'', khi này đang được mời để trị bệnh cho công chúa thứ chín,<ref>{{chú thích sách|title=Portuguese Studies Review|url=http://books.google.com/books?id=y_4jAQAAIAAJ|year=2001|publisher=International Conference Group on Portugal|page=202}}</ref> vào cung chữa bệnh cho ông.<ref name="Wilcox2010"/> Treillard (có thể có cả sự giúp đỡ của bác sĩ [[J. M. Despiau]], một bác sĩ người Pháp thân cận của vua Gia Long) bí mật điều trị cho nhà vua trong khoảng bốn tháng.<ref name=autogenerated13>{{chú thích sách|author=Wynn Wilcox|title=Vietnam and the West: New Approaches|url=http://books.google.com/books?id=EvqKqpSCpaEC&pg=PA50|year=2010|publisher=SEAP Publications|isbn=978-0-87727-782-8|pages=50}}</ref> Và sau đó vị bác sĩ này cùng với đoàn người trên tàu ''Henri'' rời đi vào khoảng ngày [[2 tháng 11]] năm [[1819]].<ref name="Wilcox2010"/> Năm tháng sau đó, sức khỏe nhà vua ngày càng suy yếu dần và đến ngày [[19 tháng 12]] năm [[Kỷ Mão]] (tức ngày [[3 tháng 2]] năm [[1820]]),<ref name="harvnb40">{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|p=285}}.</ref> vua Gia Long qua đời, hưởng thọ 59 tuổi, ở ngôi 18 năm, [[miếu hiệu]] là '''Thế Tổ''' (世祖).<!-- có bên phần [[chôn cất]] rồi, xem ở dưới! --><ref name="harvnb30">{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|p=184}}.</ref>
Về nguyên nhân qua đời, nhà nghiên cứu-lương y Lê Hưng VKD sau khi nghiên cứu ''"ngự dược nhật ký"'' năm [[Kỷ Mão]] - [[1819]] (nhật ký ghi chép lại 94 lần kê toa (gồm 24 bài thuốc) của [[Thái y viện]] triều Nguyễn đã dùng để chữa bệnh cho Gia Long), cho rằng nhà vua có thể đã bị chứng [[Xơ gan|xơ gan cổ chướng]] mà qua đời. Thời đó đây là bệnh không có cách chữa. Ông còn nhận xét ''"Phải chi thời đó có khả năng "cận lâm sàng" như hiện nay thì vị vua "khai sáng triều Nguyễn" đã có thể sống vượt qua năm Kỷ Mão [[1819]] (vì phát hiện được sớm bệnh trạng thuộc hệ tiêu hóa, do ký sinh trùng tai hại gây
[[Tập tin:Tombe de Gia Long.JPG|nhỏ|phải|200px|Phần mộ Gia Long trong khuôn viên Lăng Thiên Thọ. Được chôn cạnh Gia Long là bà [[Tống Phúc Thị Lan|Thừa Thiên Cao Hoàng hậu Tống Thị Lan]]]]
Dòng 700:
Về thời kỳ Gia Long, giáo sư [[Đại học Western Connecticut State]] Wynn Wilcox mô tả ông là một chính trị gia có hiểu biết, người hiểu và có thể tác động vào tính phức tạp của triều đình ngay khi ông đang hấp hối.<ref name="Wilcox2010" /> [[Encyclopædia Britannica|Bách khoa toàn thư Anh]] thì ghi nhận ông là một vị vua cẩn trọng, bảo thủ, điều đã ảnh hưởng tới các triều vua nối ngôi ông.<ref>{{chú thích sách|title=The New Encyclopaedia Britannica: Micropaedia (10 v.)|url=http://books.google.com/books?id=Rw48AAAAMAAJ|year=1983|publisher=Encyclopaedia Britannica|isbn=978-0-85229-400-0|page=526}}</ref> Còn nhà nghiên cứu [[Đông Á]] Joseph Buttinger thì mô tả Gia Long là một [[Nho giáo|Nho sĩ]] nghiêm khắc.<ref name="Buttinger1972">{{chú thích sách|author=Joseph Buttinger|title=A dragon defiant: a short history of Vietnam|url=http://books.google.com/books?id=Yg8sAAAAMAAJ|year=1972|publisher=Praeger|page=56}}</ref> [[Keith Weller Taylor]] thì nhận xét nhà vua vẫn giữ các thói quen từ thời chiến trong cung đình qua việc ông ''"không vội vàng nhưng rất quyết đoán"'' khi giải quyết chuyện chính sự.<ref name="abcdsxzaasa">{{harvnb|Taylor|2013|p=412-413}}.</ref>
Gia Long rất chán ghét sự rối ren nơi hậu cung do các bà vợ hay đấu đá lẫn nhau. Ông từng tâm sự với một triều thần gốc Pháp là J.B. Chaigneau: ''
==Gia quyến==
Dòng 908:
''Nhưng một lần nữa, giữa lý thuyết [rằng hệ tư tưởng Nho giáo sẽ thống nhất được lòng người ở Việt Nam] và thực tế luôn luôn là hai thứ khác biệt. Không phải vì Gia Long chọn [[Nho giáo]] là hệ tư tưởng chính thống nên nó sẽ có thể hoạt động hiệu quả ngay. Việc đó đã không xảy ra. Gia Long là một nhà quân sự và ông rất tự hào về việc này. Ông chẳng bao giờ có được thời gian để được học tập về Nho giáo khi còn trẻ và có thể là ông cũng chẳng bao giờ nghĩ nghiêm túc về việc này. Ông đã đạt được sự kính trọng, xây dựng được quân đội và giành được chiến thắng sau cùng cho bản thân vào năm [[1802]] dựa trên tính thực tế, sự sáng tạo của bản thân, khả năng thỏa hiệp và sự chính trực. Thứ hai, Gia Long hiểu rõ về sự mong manh của nước [[Việt Nam]] mới thống nhất sau ba mươi năm nội chiến. Quân đội [[chúa Trịnh]] và Tây Sơn có thể đã bị giải tán, nhưng sự trung thành thì vẫn bị chia rẽ sâu sắc. Những vết thương từ cuộc chiến có thể đã lành, nhưng viết sẹo của nó thì vẫn còn. Sự căm tức và lòng thù hận thường hay lẩn khuất dưới cái vẻ ngoài mỏng manh mang tên sự yên bình. Vị hoàng đế thắng trận đã không thực sự cải thiện điều gì khi ông tiến hành săn đuổi và giết chết tất cả những lãnh đạo và hậu nhân của Tây Sơn, những người mà ông quy trách nhiệm cho việc đồ sát và tận diệt dòng tộc của mình. Điều thứ ba, Gia Long hiểu rất rõ quyền lực về chính trị, quân sự cũng như kinh tế của các gia tộc và lãnh chúa ở các địa phương. Gia tộc [[nhà Nguyễn]] cũng xuất phát là một gia tộc lớn ở địa phương và bản thân Gia Long đã góp phần phát triển một nhóm mới như vậy tại khu vực cơ sở quyền lực của ông ở miền Nam Việt Nam. Sự thật là, đồng minh lâu năm và bạn thân của Gia Long tại Gia Định là tướng [[Lê Văn Duyệt]] trên thực tế đã cai trị miền Nam Việt Nam sau năm [[1802]]. Hoàng đế đã phong thưởng các đồng minh thời chiến của mình bằng các vị trí cao cấp ở khu vực miền Trung và miền Nam. Đó là vì sao mà dù đã đề ra [[Hoàng Việt luật lệ|một bộ luật theo tư tưởng Nho giáo]], khôi phục lại chế độ thi cử khoa bảng, xây dựng kinh đô mới gồm cả một [[Tử Cấm Thành]] của chính mình; Gia Long vẫn duy trì một lực lượng quân sự rất lớn. Ở [[vùng miền Trung]], triều đình cai trị thông qua bốn doanh và bảy trấn quân sự độc lập. Ở khu vực miền Bắc và miền Nam, nhà vua cũng thành lập mỗi vùng năm trấn như vậy. Dưới thời Gia Long, các quan Trấn thủ cũng là một phần của văn hóa chính trị tại Việt Nam có vai trò giống như vị vua theo Nho giáo vậy. Thể chế chính trị song song này đã có ít nhất từ thời trỗi dậy của các họ Mạc, Trịnh và Nguyễn ở thế kỷ XV nếu không là sớm hơn nữa.''|||Christopher Goscha<ref name="Goscha20162">{{chú thích sách|author=Christopher Goscha|title=The Penguin History of Modern Vietnam: A History|url=http://books.google.com/books?id=kTVUCwAAQBAJ&pg=PT54|date=ngày 30 tháng 6 năm 2016|publisher=Penguin Books Limited|isbn=978-0-14-194665-8|pages=55-56}}</ref>}}
Về luật pháp, Gia Long cho soạn bộ luật mới có tên gọi là [[Hoàng Việt luật lệ]] (còn được gọi là "luật Gia Long").<ref name="harvnb44"/> Trong 398 điều thì chỉ có 2 điều là rút từ ''Quốc triều Hình luật'' thời Hậu Lê, vài chục điều luật khác biệt chút ít về từ ngữ so với luật của [[nhà Thanh]] bên Trung Quốc, các điều luật còn lại đều sao chép lại nguyên xi tên gọi lẫn nội dung kể cả các tiểu chú của các điều luật trong
Về chính sách thuế khóa và lao dịch, Gia Long áp mức thuế và lao dịch rất nặng lên dân chúng để chi tiêu cho xây dựng và quân đội. Việc xây thành [[Phú Xuân]] và đào [[kênh Vĩnh Tế]] phải huy động hàng vạn dân phu đi lao dịch. Một người Pháp là Borel viết năm [[1818]] mô tả việc xây thành Phú Xuân ([[Huế]]): ''
::''"Vua Gia Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách, sự bất công và lộng hành làm cho người ta rên xiết hơn cả ở thời Tây Sơn; thuế má và lao dịch thì tăng lên gấp ba".''<ref name="đượclsvn16" />
Chỉ mấy năm sau khi Gia Long lên ngôi, nhà truyền giáo Bissachere viết<ref name="ReferenceA"/>:
:''
===Vấn đề đối ngoại ===
Dòng 926:
Giáo sư [[Trần Văn Giàu]] nhận xét việc Nguyễn Ánh cầu viện Pháp, cho các sĩ quan Pháp làm quan trong triều đình đã để lại tai họa cho đất nước:<ref>{{Chú thích web|url=http://tuanbaovannghetphcm.vn/luan-ve-nhung-nguyen-nhan-viet-nam-mat-nuoc-ve-tay-phap/|tiêu đề=Luận về những nguyên nhân Việt Nam mất nước về tay Pháp|website=Tuần báo Văn nghệ|ngày truy cập=2023-01-09|archive-date=2017-10-02|archive-url=https://web.archive.org/web/20171002215439/http://tuanbaovannghetphcm.vn/luan-ve-nhung-nguyen-nhan-viet-nam-mat-nuoc-ve-tay-phap/|url-status=dead}}</ref>
{{cquote|
''...đúng là sĩ quan Pháp đã giúp nhiều cho Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn. Cho nên trong triều đình [[Huế]], đến khi Gia Long lên ngôi, vẫn còn thấy mấy quan đại thần mắt xanh tóc đỏ. Khỏi phải nói trắng ra, các quan đại thần đó như Dayot, Chaigneau,
''Cầu viện Pháp, Hiệp ước Versailles đã tạo thành một
{{cquote|
Dòng 937:
''Khi suy bĩ, Gia Long biết cầu cứu nước Pháp, đã mục kích được dã tâm đế quốc của Liệt cường Tây Phương trước thời của ngài và cả trong thời ngài, vậy mà không tìm nổi một kế sách giữ nước cho khỏi "Bạch họa", chỉ biết "bế quan tỏa cảng", các triều đại kế tiếp cũng chẳng sáng suốt hơn, làm gì mà không mất nước.|||Phạm Văn Sơn<ref name="Việt Sử toàn thư, tr 417">Việt Sử toàn thư, tr. 417.</ref>}}
Trong bài ''
:''
Sau khi lên ngôi, Gia Long còn đem đất [[Bồn Man|Trấn Ninh]] cắt cho [[vương quốc Vạn Tượng]], việc này cũng bị chỉ trích. Sau hơn 300 năm thuộc về lãnh thổ Đại Việt dưới thời [[nhà Hậu Lê]] và [[nhà Tây Sơn]], Trấn Ninh đã bị Gia Long cắt cho nước khác. Xét về diện tích, đây là lần bị mất lãnh thổ lớn thứ 2 trong lịch sử Việt Nam, chỉ đứng sau việc Tự Đức cắt [[Nam Kỳ lục tỉnh]] cho thực dân Pháp. Xét về nguyên nhân thì lần mất lãnh thổ này là đáng tiếc nhất, vì Gia Long cắt đất Trấn Ninh xem như "quà tặng" chứ không phải vì bị quân đội nước ngoài xâm chiếm.
Dòng 944:
Hai sử gia Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng cho rằng: Trong những lần thua trận, ông đều cầu xin người ngoài vào giúp sức nhưng cũng là gián tiếp, ''"rước voi về giày mả tổ"'', ''"đưa hổ vào nhà"'' hay ''"cõng rắn cắn gà nhà"'', gây ra hậu quả và tiền lệ xấu cho vận mệnh dân tộc qua việc cầu cứu Xiêm, cầu cứu Pháp.<ref name="harvnb52">{{harvnb|Nguyễn Lương Bích|Phạm Ngọc Phụng|1976|p=88}}.</ref><ref name="harvnb52"/> Giáo sư [[Đinh Gia Khánh]] cho rằng [[hiệp ước Versailles năm 1787]] của Nguyễn Ánh do Bá Đa Lộc thay mặt ký với Pháp là một hiệp ước ''"bán nước, phản bội dân tộc"''.<ref name="DGK">{{harvnb|Đinh Gia Khánh|2000|pp=173}}.</ref> Riêng tác giả Lý Khôi Việt của tổ chức Viện Phật học Quốc tế ở Hoa Kỳ còn chỉ trích nặng nề hơn mối quan hệ trên qua việc gọi Nguyễn Ánh là ''"một tên đại phản quốc, đại [[Việt gian]]".''<ref>{{Chú thích sách|title=Hai ngàn năm Việt Nam & Phật giáo|author=Lý Khôi Việt|year=1988|publisher=Phật học Việt Quốc tế|pages=tr. 183|url=http://books.google.com/books?id=yEEFAQAAIAAJ&q=%22Nguyen+Anh+chinh%22+%22mot+ten%22&dq=%22Nguyen+Anh+chinh%22+%22mot+ten%22&ei=ePrBS7O4OJncMaXAjc4I&cd=1}}</ref>
Trong tập Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Lịch sử nhân kỷ niệm 200 năm ngày chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút tại [[Tiền Giang]] vào tháng 12/1984, bài tham luận của nhà sử học [[Phan Huy Lê]] đánh giá, nhận xét như sau:<ref>Kỷ yếu Hội nghị khoa học
:''Triều Mạc thỏa thuận với nhà Minh và cắt đất cho giặc. [[Chúa Trịnh]] bất lực để cho [[nhà Minh]] rồi [[nhà Thanh]] lấn cướp nhiều dải đất biên cương. Nguyễn Ánh cầu cứu vua Xiêm và câu kết với chủ nghĩa tư bản [[phương Tây]]. [[Lê Chiêu Thống]] rước quân Thanh vào giày xéo đất nước.''
:''Đây không còn là hành vi bán nước của từng phần tử phong kiến mà là sự phản bội dân tộc của các thế lực phong kiến nắm quyền thống trị. Giai cấp phong kiến đang trải qua một quá trình phân hóa sâu sắc, trong đó từng bộ phận phong kiến cầm quyền, có tính chất đại diện, đã phản bội lợi ích dân tộc và sẵn sàng câu kết với giặc. Kẻ thù của độc lập dân tộc tìm thấy một chỗ dựa, một lực lượng nội ứng ngay bên trong cơ cấu xã hội''
Dòng 960:
*Xét về vai vế thì [[chúa Nguyễn]] không phải là vua mà chỉ là quan chức của [[nhà Hậu Lê]], giúp vua Lê cai quản xứ Đàng Trong. Do đó, nếu Nguyễn Ánh muốn rước quân Xiêm vào nước hoặc hứa cắt đất cho Pháp thì phải có chiếu chỉ đồng ý của vua Lê. Thực tế Nguyễn Ánh tự ý mời quân Xiêm, cũng tự ý hứa cắt đất cho Pháp mà không hề có sự đồng ý của vua Lê. Như vậy, kể cả khi xét theo hệ tư tưởng phong kiến đương thời thì việc làm của Nguyễn Ánh cũng không thể bào chữa được, mà còn có thể coi đó là hành vi ''"tự ý đang lãnh thổ của nhà vua cho giặc"'', theo luật phong kiến thì sẽ bị khép vào tội [[Thập ác|Thập Ác bất xá]] - mục ''"Mưu loạn (phản nước theo giặc)"''.
Về phía [[Pháp]], sử gia đương thời Gosselin cho rằng:<ref>Gosselin,
:''Những vị hoàng đế nước Nam, bởi sự bội bạc đối với những người Pháp lẫy lừng đã làm quan cho Gia Long, mà nhờ họ, ông ta [Gia Long] mới có được ngai vàng; bởi sự tàn ác đối với những giáo sĩ đồng bào của chúng ta; bởi sự cứng đầu điên dại bế quan tỏa cảng; bởi sự khinh bỉ nền văn minh [[phương Tây]], vì kiêu căng ngu muội, họ cho là man rợ; bởi sự kiên trì từ chối tiếp xúc với nước ngoài, trừ nước Tầu; những hoàng đế này, tôi nói rằng, phải chịu trách nhiệm sự suy đồi và sụp đổ của nước họ, phải gánh vác một mình, sự nhục nhã trước lịch sử.''
Dòng 1.062:
| year=2014
| ISBN=
}}. (Bản dịch tiếng Pháp từ ''
* {{Citation
| author=Thụy Khuê
|