Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Gia Long”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của Người Viết Bài Về Lịch Sử (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Nguyenquanghai19 Thẻ: Lùi tất cả Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao |
Task 3: Thực hiện tác vụ Sửa lỗi chung (GeneralFixes2) theo yêu cầu trong hàng chờ (#TASK3QUEUE) Thẻ: Liên kết định hướng |
||
(Không hiển thị 28 phiên bản của 14 người dùng ở giữa) | |||
Dòng 1:
{{pp-vandalism|small=yes}}
{{Bài cùng tên}}
{{quá dài|rps=
{{Infobox royalty
|name=Nguyễn Thế Tổ<br>Gia Long
Hàng 7 ⟶ 8:
|father= [[Nguyễn Phúc Luân]]
|mother= [[Nguyễn Thị Hoàn]]
|spouse=[[Tống Phúc Thị Lan|Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu]]<br>[[Trần Thị Đang|Thuận Thiên Cao hoàng hậu
|issue=[[Nguyễn Phúc Cảnh]]<br>[[Minh Mạng|Nguyễn Phúc Đảm]]<br>13 con trai và 18 con gái khác
|birth_date={{birth date|1762|2|8}}
|birth_place = [[Phú Xuân]], [[Đàng Trong]], [[Đại Việt]]
|death_date={{death date and age|1820|2|3|1762|2|8}}
|death_place = [[Hoàng thành Huế]]
|place of burial = [[Thiên Thọ Lăng]]
|full name= Nguyễn Phúc Ánh ({{linktext|阮|福|暎}})
|succession= [[Vua Việt Nam|Hoàng đế Đại Việt]]
|reign=
|predecessor= [[Nguyễn Quang Toản]] của [[Nhà Tây Sơn]]
|successor= ''Đại Việt đổi tên thành Việt Nam''
|succession1= [[Vua Việt Nam|Hoàng đế Việt Nam]]
|reign1=
|predecessor1= ''Đại Việt đổi tên thành Việt Nam''
|successor1= [[Minh Mạng]]
Hàng 29 ⟶ 30:
| regent = [[Minh Mạng]] (1818–1820)
|succession3= [[Chúa Nguyễn]]
|reign3= tháng 5 năm 1777 – 23 tháng 6 năm 1802
|predecessor3=[[Nguyễn Phúc Dương]]
|successor3=''Kết thúc
|house= [[Nhà Nguyễn Phúc|Nguyễn Phúc]]
|regnal name =Đại nguyên súy Nhiếp quốc chính ({{linktext|大元帥|攝|國政}}, 1778–1780)<ref name="harvnb6">{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|p=107}}</ref><br>Nguyễn Vương ({{linktext|阮|王}}; 1780–1802)<ref name="harvnb33">{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|p=278}}</ref>
Hàng 41 ⟶ 42:
}}
'''Gia Long'''<ref>Nguyễn Phúc Tộc thế phả- Nhà xuất bản Thuận Hóa- Huế 1995</ref> ({{hn|ch=嘉隆}};
Nguyễn Ánh là cháu nội của chúa [[Nguyễn Phúc Khoát]], vị [[chúa Nguyễn]] áp chót ở [[Đàng Trong]]. Sau khi gia tộc chúa Nguyễn bị [[nhà Tây Sơn|quân Tây Sơn]] lật đổ vào năm [[1777]], ông trốn chạy và bắt đầu cuộc chiến 25 năm với [[Tây Sơn]] để khôi phục ngôi vị. Ban đầu Nguyễn Ánh chịu nhiều thất bại lớn, có lúc phải chạy sang [[Xiêm|Xiêm La]] và sống lưu vong ở đây trong ba năm. Để chống Tây Sơn, ông nhiều lần cầu viện nước ngoài, bao gồm việc mời quân Xiêm đánh vào Nam bộ<ref name="harvnb15"/>, hứa cắt đất và cống nạp để mời quân Pháp<ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=183}}</ref>, và chở 50 vạn cân gạo để giúp quân Thanh đang chiếm đóng Bắc bộ<ref name="harvnb36" />
Năm [[1787]], ông đã trở lại và giữ vững được [[Nam Bộ]]. Về sau, lúc Tây Sơn suy yếu sau cái chết đột ngột của vua [[Quang Trung]] vào năm [[1792]], Nguyễn Ánh bắt đầu tiến đánh nhà Tây Sơn và đến năm [[1802]] thì đánh bại Tây Sơn, lên ngôi [[hoàng đế]], lập ra [[nhà Nguyễn]], thống nhất đất nước và kết thúc nhiều thế kỷ nội chiến ở Việt Nam. Triều đại của Gia Long đã chính thức sử dụng quốc hiệu [[Các tên gọi của nước Việt Nam|Việt Nam]]. Ông cũng quyết định đóng kinh đô tại thủ phủ cũ của các Chúa Nguyễn là [[Cố đô Huế|Phú Xuân]] (Huế).<ref>Trần Đức Anh Sơn, tr. 18.</ref> Lãnh thổ nước Việt thời Gia Long về cơ bản được định hình giống như ngày nay, kéo dài từ biên giới với [[Trung Quốc]] tới [[vịnh Thái Lan]], bao gồm cả quần đảo [[Quần đảo Hoàng Sa|Hoàng Sa]] và [[Quần đảo Trường Sa|Trường Sa]], tuy nhiên
Về đối ngoại, ông là người mở đường cho sự can thiệp của [[người Pháp]] ở [[Việt Nam]] qua việc mời người Pháp giúp [[xây dựng]] các thành trì lớn, huấn luyện [[quân đội]] và khoan thứ cho việc truyền đạo [[Công giáo tại Việt Nam]]. Về mặt đối nội, nước Việt thời Gia Long không được ổn định, do Gia Long tăng thuế khóa và lao dịch quá nặng nên bị người dân bất bình,<ref name="đượclsvn16" /> chỉ trong 18 năm đã có khoảng 90 cuộc khởi nghĩa nổ ra trên cả nước.<ref name="Việt Nam 1858">Lịch sử Việt Nam (1427-1858), tr. 166-173.</ref> Gia Long cũng xóa bỏ các [[cải cách]] tiến bộ của [[Nhà Tây Sơn|triều Tây Sơn]] để thay bằng việc áp dụng các chính sách cai trị phong kiến khá bảo thủ, tiêu biểu là việc cấm thương nhân [[người Việt]] buôn bán với ngoại quốc,<ref name="Tarling1"/> soạn [[Hoàng Việt luật lệ|Hoàng triều luật lệ]] hay còn gọi là "luật Gia Long", gần như chép nguyên mẫu từ luật của [[nhà Thanh]] ([[Trung Quốc]]) nên khá khắc nghiệt và không được tiến bộ như bộ [[luật Hồng Đức]] của [[nhà Hậu Lê]].<ref name="Nguyễn Khắc Thuần 2005 306">{{harvnb|Nguyễn Khắc Thuần|2005|p=306}}.</ref> Các chính sách bảo thủ là nguyên nhân khiến nước Việt thời nhà Nguyễn dần trở nên trì trệ, lạc hậu, không thích ứng kịp với thời đại mới và bị [[Đế quốc thực dân Pháp|đế quốc Pháp]] xâm chiếm vào nửa thế kỷ sau.<ref name="tcs" />
==Thời trẻ==
Nguyễn Ánh sinh vào ngày [[15 tháng 1]] năm [[Nhâm Ngọ]] (tức ngày [[8 tháng 2]] năm [[1762]]), là con trai thứ ba của vương tử [[Nguyễn Phúc Luân]] và Nguyễn Thị Hoàn.<ref name="harvnb32">{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|p=277}}.</ref> Khi còn nhỏ Nguyễn Ánh còn có tên khác là '''Nguyễn Phúc Chủng''' (阮福種) và '''Noãn''' (暖).<ref name="harvnb32" /><ref name="luongkimthanh"/>
Nguyễn Ánh sinh ra vào thời kỳ nước [[Đại Việt]] bị chia làm hai, lấy ranh giới ở [[sông Gianh]] ([[Quảng Bình]]): từ sông Gianh ra Bắc là Đàng Ngoài có nhà nước của [[nhà Lê trung hưng|vua Lê]] – [[chúa Trịnh]]; lãnh thổ từ [[sông Gianh]] vào Nam là Đàng Trong, nằm dưới sự cai trị của [[chúa Nguyễn]]. Chúa Nguyễn tự đặt chính sách kinh tế, quân sự, tài khóa riêng cho Đàng Trong, dù trên danh nghĩa các chúa Nguyễn vẫn là quan của nhà Lê, hàng năm nộp cống và dùng niên hiệu của vua Lê. Ông nội Nguyễn Ánh là Vũ vương [[Nguyễn Phúc Khoát]], chúa thứ 8 của họ Nguyễn. Vũ vương mất năm [[1765]]; trước đó thế tử Nguyễn Phúc Hiệu đã chết, con thế tử là [[Nguyễn Phúc Dương]] còn nhỏ, nên Vũ vương có di chiếu truyền ngôi cho Phúc Luân.{{sfn|Trần Trọng Kim|1971|pp=135-144}} Nhưng quan phụ chính [[Trương Phúc Loan]] chuyên quyền, bèn sửa di chiếu lập con thứ 12 của Vũ vương là [[Nguyễn Phúc Thuần|Phúc Thuần]] làm chúa. Phúc Luân bị bắt giam và chết trong ngục; năm đó Nguyễn Ánh mới 4 tuổi.<ref name="harvnb32" /><ref name="luongkimthanh"/>
==Trốn chạy Tây Sơn==
Khi Nguyễn Ánh được 9 tuổi ([[1771]]), 3 anh em [[Nguyễn Nhạc]], [[Quang Trung|Nguyễn Huệ]], [[Nguyễn Lữ]]
Tháng 2 năm [[1777|1776]], Nguyễn Ánh dù còn nhỏ tuổi vẫn được cho giữ chức Chưởng sứ coi binh Tả Dực, và cho dự họp bàn việc quân.<ref name="tk56" />
Hàng 76 ⟶ 77:
==Xưng vương ở Nam Bộ==
[[Tập tin:Bản Đồ Xứ Gia Định Hậu Bản XVIII.png|nhỏ|phải|360px|Lược đồ một số địa danh ở Gia Định cuối [[thế kỷ XVIII]] xuất hiện trong bài viết. Bản đồ này chứa đựng hầu hết các địa danh ở miền nam Việt Nam và khu vực lân cận xuất hiện trong bài viết (riêng địa danh [[Long Xuyên (huyện cũ)|Long Xuyên thế kỷ XVIII]] nay là Cà Mau, [[Long Xuyên]] trong bản đồ này chỉ là địa danh từ cuối [[thế kỷ XIX]] khi thuộc Pháp).]]
Năm [[1778]], khi Nguyễn Ánh được 17 tuổi, các tướng tôn ông làm Đại nguyên súy Nhiếp quốc chính.<ref name="harvnb6"
Suốt các năm [[1778]] và [[1779]], Nguyễn Ánh ra sức củng cố và mở mang [[Thành Gia Định|Phiên An trấn]] (vùng Sài Gòn-Gia Định-Long An hiện giờ) với mục đích biến vùng này thành căn cứ địa chống Tây Sơn.<ref>{{harvnb|Huỳnh Minh|2006|pp=9-10}}.</ref> Ông cho tổ chức phân chia hành chính<ref name=autogenerated11>{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=509}}.</ref> đất Gia Định dưới sự cố vấn của [[Bá Đa Lộc]],<ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|p=100}}.</ref> đặt quan coi giữ, đóng thuyền, trữ lương chuẩn bị, xây dựng chiến lũy phòng thủ và củng cố lực lượng thủy bộ.<ref name="harvnb32"/><ref>{{harvnb|Huỳnh Minh|2006|p=9}}.</ref><ref name="harvnb99"/> Trong đó Nguyễn Ánh đặc biệt quan tâm tới thủy binh: ngay sau khi vừa được tôn làm Đại Nguyên soái, ông liền cho đóng ngay 50 chiến hạm đầu nhọn gọi là ''Long Lâm Thuyền''.<ref name="auto">{{harvnb|Tôn Nữ Quỳnh Trân|2013|p=141}}.</ref> Hai năm sau, tướng Đỗ Thanh Nhơn lại đưa ra sáng kiến đóng thủy sư hai bánh (thuyền hai lái) với một bánh lái dài đi biển và bánh lái tròn đi sông, phía dưới thuyền có gác sàn che phiên tre hai bên bảo vệ thủy binh chèo thuyền, phía trên là bộ binh xung kích. Đây được xem là một sáng kiến cho kỹ thuật đóng thuyền thời bấy giờ.<ref name="auto"/>
Hàng 83 ⟶ 84:
===Quan hệ với Chân Lạp và Xiêm La===
Năm [[1779]], [[Chân Lạp]] xảy ra nội loạn do tranh giành ngôi vua, Nguyễn Ánh bèn sai Đỗ Thanh Nhơn, [[Hồ Văn Lân]] và [[Dương Công Trừng]] đi đánh Chân Lạp và giữ quân lại bảo hộ.<ref name="harvnb99">{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=99}}.</ref><ref name="harvnb8" /> [[Tháng một|Tháng 1]] năm [[1780]], Nguyễn Ánh xưng vương, dùng theo niên hiệu [[Lê Hiển Tông|Cảnh Hưng của nhà Lê]] và lấy ấn "[[Bửu tỷ triều Nguyễn|Đại Việt quốc Nguyễn chúa Vĩnh Trấn chi bửu]]" làm [[ngọc tỷ truyền quốc|ấn truyền quốc]],<ref name="harvnb33"
Ngay sau khi xưng vương, tháng 6 năm Canh Tý ([[1780]]), Nguyễn Ánh sai sứ là Cai cơ Sâm và Tĩnh đi sứ nước Xiêm. Khi ấy, thuyền buôn Xiêm từ [[Quảng Đông]] trở về đến phần biển [[Hà Tiên]], bị lưu thủ Thăng (không rõ họ) giết và cướp hết của cải. Vua Xiêm là [[Taksin]] giận, đem Sâm và Tĩnh giam vào ngục. Lại có người Chân Lạp là Bô Ông Giao nói gièm với vua Xiêm rằng quân Gia Định đã gởi mật thư bảo [[Tôn Thất Xuân]] và [[Mạc Thiên Tứ]] làm nội ứng, mưu lấy thành [[Băng Cốc|Vọng Các]]. Vua Xiêm rất ngờ, liền bắt hết mọi người để tra hỏi. [[Mạc Tử Dung|Mạc Tử Duyên]] (con của Thiên Tứ) hết sức cãi đó là chuyện vu cáo, bị vua Xiêm đánh chết. Thiên Tứ tự tử. Tôn Thất Xuân cùng Sâm, Tĩnh và quyến thuộc của Mạc Thiên Tứ cộng 53 người đều bị hại hết. Người Việt ngụ ở Xiêm đều bị dời hết ra nơi biên thùy.<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=185}}.</ref>
Hàng 103 ⟶ 104:
Tháng 2 âm lịch năm [[1783]], Nguyễn Nhạc sai [[Nguyễn Huệ]] và [[Nguyễn Lữ]] mang quân tiến đánh Gia Định. Quân Tây Sơn từ biển Cần Giờ ngược dòng tiến lên đánh Gia Định. Dù Nguyễn Ánh đã lập tuyến phòng thủ trước nhưng vẫn bị quân [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn]] phá tan trong trận đánh ở cửa Cần Giờ.<ref>{{harvnb|Nguyễn Lương Bích|Phạm Ngọc Phụng|1976|p=65}}.</ref><ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|p=113-114}}.</ref> Tướng của Nguyễn Ánh là [[Nguyễn Phước Mân]] bị giết chết, [[Dương Công Trừng]] bị bắt sống, chỉ riêng [[Châu Văn Tiếp]] chạy thoát. Bản thân Nguyễn Ánh buộc phải bỏ chạy về Ba Giồng cùng tướng Nguyễn Kim Phẩm với tầm 100 quân.<ref name="auto4"/><ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|p=114}}.</ref>
Tháng 4 âm lịch, Nguyễn Ánh sai Nguyễn Kim Phẩm làm tiên phong và [[Nguyễn Huỳnh Đức]] chỉ huy một đạo quân người [[Chân Lạp]] làm hậu ứng, tập hợp cùng các tướng Tôn Thất Dụ, Nguyễn Đình Huyên, Lại bộ Hồ Đồng, Binh bộ Minh, Tham nghị Trần Đại Thể, Tham mưu Trần Đại Huề (con Đại Thể), Hoảng làm Tả chi, Nguyễn Văn Quý làm Hữu chi, quay về đóng quân ở [[Đồng Tuyên]].<ref name="autogenerated7" /><ref name="harvnb12" /> Nguyễn Huệ hay tin, kéo quân [[trận Đồng Tuyên|đánh phá Đồng Tuyên]], quân Nguyễn Ánh thua to. Trong trận này, Đồng bị Tây Sơn bắt, còn Minh, Quý, Thuyên và Huề đều chết.<ref name="harvnb12" /> Riêng Nguyễn Ánh chạy về sông Lật Giang (nay là đoạn sông [[Vàm Cỏ Đông]] ngang [[Bến Lức]]) dưới sự truy sát của Tây Sơn, tới khúc sông gặp nước chảy mạnh, nhiều tùy tùng chết đuối, còn Nguyễn Ánh nhờ biết bơi nên bơi qua được. Chạy đến sông Đăng Giang, sông có nhiều cá sấu, không thể bơi qua được, may lúc ấy có con trâu nước đang nằm bên bờ, Nguyễn Ánh cưỡi trâu sang sông. Qua được sông, Nguyễn Ánh đi [[
Cùng lúc, Nguyễn Ánh sai Tôn Thất Cốc và tướng quân [[Hòa Nghĩa]] là Trần Đĩnh trở về cửa biển Cần Giờ dò xét quân Tây Sơn. Vì Cốc có mâu thuẫn nên giết Đĩnh. Việc này khiến hai thuộc hạ [[Người Hoa (Việt Nam)|người Hoa]] của Đĩnh là Tổng binh Trần Hưng và Lâm Húc nổi dậy chiếm giữ [[
Tháng 6 âm lịch, khi Nguyễn Ánh lui ra đóng ở tại đảo Điệp Thạch ([[hòn Đá Chồng]]) thuộc Phú Quốc thì một thống suất của quân Tây Sơn là [[Phan Tuấn Thuận]] bất ngờ kéo quân ra truy kích, tình thế bức bách khiến tướng [[Lê Phước Điển]] phải dùng kế hy sinh. Ông này mặc áo ngự đóng giả Nguyễn Ánh khiến Tây Sơn bắt nhầm.<ref name="harvnb33" /><ref name="autogenerated7" /><ref name="autogenerated7" /><ref name="harvnb13">{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=116-117}}.</ref><ref name="harvnb13" /><ref name="harvnb34">{{harvnb|Huỳnh Minh|2006|p=11}}.</ref> Nguyễn Ánh đi thuyền khác thoát chạy ra được [[đảo Côn Lôn]] trong khi các thuộc tướng khác đều bị Tây Sơn bắt và giết sau khi dụ hàng không được.<ref name="tt195" />
Hàng 111 ⟶ 112:
Tháng 7 âm lịch, dò biết được Ánh đang đóng ở ngoài đảo (là đảo nào thì sử liệu chép khác nhau: [[Huỳnh Minh]] ghi rằng Phú Quốc,<ref name="harvnb34" /> [[Tạ Chí Đại Trường]] cho là [[Koh Rong|Cổ Long]]<ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=118}}.</ref> còn [[Đại Nam thực lục|Thực lục]] thì lại chép là [[Côn Đảo|Côn Lôn]]<ref name="auto5">{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=193}}.</ref>), Nguyễn Huệ sai phò mã [[Trương Văn Đa]] của Tây Sơn kéo quân vây đánh 3 vòng trùng trùng điệp điệp. Nhưng lúc này bất ngờ có bão biển, mây mù kín mít, các thuyền Tây Sơn phải giãn ra và một số bị đánh đắm.<ref name="bkkkkbzz">{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=118-119}}.</ref> Nguyễn Ánh thừa cơ lên thuyền trốn và sau bảy ngày đêm lênh đênh trên biển, ông quay ra hòn [[Cổ Cốt]] rồi lại về Phú Quốc.<ref name="harvnb33" /><ref name="PK516">{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=516}}.</ref> Thời gian này, vì thiếu lương thực binh sĩ Nguyễn Ánh phải đi hái cỏ, tìm củ mà ăn. Có người đàn bà buôn bán ở Hà Tiên tên là Thị Uyển chở một thuyền gạo đến dâng.<ref name="bkkkkbzz" /><ref name="PK516" /> Thuyền Nguyễn Ánh gặp gió, buồm và cột buồm bị hỏng, lại có thuyền buôn đem lá buồm đến dâng.<ref name="tt195" />
Chính trong thời gian này, với những khó khăn gặp phải và mối quan hệ của Nguyễn Ánh với [[Bá Đa Lộc]] ngày càng thắt chặt, hình ảnh nước Pháp ngày càng lớn dần trong tâm trí của Nguyễn Ánh, kèm theo đó là lời bày của Bá Đa Lộc khiến Nguyễn Ánh bắt đầu nảy sinh ý định cầu viện Pháp.<ref name="harvnb15"/> Hay tin [[Bá Đa Lộc]] đang ở Chan Bô ([[Chanthaburi (tỉnh)|Chanthaburi, Xiêm La]]), Nguyễn Ánh mời đến Phú Quốc và nhờ ông này làm sứ giả nhằm nhờ nước Pháp mang quân sang giúp. Nguyễn Ánh giao cho Bá Đa Lộc một tờ quốc thư 14 khoản cầu viện Pháp và cả quốc ấn để vị Giám mục này được toàn quyền thay mặt Nguyễn Ánh<ref name="harvnb15">{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|pp=110}}.</ref> sang Pháp cầu viện triều đình vua [[Louis XVI của Pháp|Louis XVI]]. Đi kèm với Bá Đa Lộc là con cả của Nguyễn Ánh là [[Nguyễn Phúc Cảnh]] (để làm con tin) và Phó vệ úy Phạm Văn Nhân và Cai cơ Nguyễn Văn Liêm.<ref name="
Nguyễn Ánh vẫn tiếp tục tìm cách quay lại Gia Định qua cửa biển [[Ma Ly]] (một cửa biển xưa thuộc [[Bình Thuận]] ngày nay<ref>Theo {{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=119}} thì Ma Ly là một cửa biển thuộc khu vực [[xã Tam Tân]], tỉnh [[Bình Tuy]] cũ, hiện nay gần [[La Gi]], [[Bình Thuận]].</ref>), Tây Sơn nghe tin liền đưa hơn 20 chiến thuyền đuổi bắt khiến ông phải giăng bồm chạy sang hướng đông, lênh đênh hơn 7 ngày đêm mới thoát được về Phú Quốc.<ref name="tt195" /><ref name="bkkkkbzz" /> Sau đó, Nguyễn Ánh cùng Cai cơ Võ Văn Chính quay về khu vực [[Long Xuyên (huyện cũ)|Long Xuyên]] (nay là [[Cà Mau]]) tập hợp quân đợi sẵn. Thuyền Nguyễn Ánh về tới cửa biển Đốc Công ([[sông Ông Đốc]]) bắt giết được tướng Tây Sơn là [[Quản Nguyệt]]. Việc này đánh động tới quân Tây Sơn, tháng 8 âm lịch năm đó, Lưu thủ Tây Sơn là [[Nguyễn Hóa]] đem 50 chiến thuyền ngầm phục kích Nguyễn Ánh ở của biển Đốc Công. Quân Nguyễn Ánh bắt được một chiến thuyền Tây Sơn và hay tin, vội chạy nhanh ra biển, Hóa đuổi theo không kịp. Lúc này anh em Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đã về [[Quy Nhơn]], để Gia Định lại cho [[Trương Văn Đa]] và Chưởng tiền Bảo giữ. Nguyễn Ánh chạy ra [[hòn Chông]], rồi sang đảo Thổ Châu.<ref name="tt195" />
Hàng 137 ⟶ 138:
Tháng 12, Nguyễn Nhạc sai Long Nhương tướng quân [[Nguyễn Huệ]] đem quân vào đánh. Quân Tây Sơn đánh thắng lẫy lừng trong [[trận Rạch Gầm – Xoài Mút]]. Chỉ một trận quyết chiến diễn ra không đầy một ngày đã tiêu diệt gần 2 vạn quân Xiêm cùng mấy ngàn quân Nguyễn Ánh, chỉ sót vài nghìn người<ref name="harvnb16">{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=125-126}}.</ref><ref>{{harvnb|Phan Khoang|2001|pp=517-518}}.</ref> chạy theo đường thượng đạo trốn về nước. Từ sau vụ việc này, Nguyễn Ánh không còn trông mong gì vào Xiêm nữa vì ''"họ (Xiêm La) sợ quân Tây Sơn như sợ cọp".''<ref name="harvnb16" /><ref name="autogenerated8" />
Trong tập Kỷ yếu Hội nghị khoa học lịch sử nhân kỷ niệm 200 năm ngày chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút tại Tiền Giang vào tháng 12-1984, trong đó bài tham luận của nhà sử học [[Phan Huy Lê]] đánh giá, nhận xét như sau:<ref>Kỷ yếu Hội nghị khoa học
:''"Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Xiêm được bọn phong kiến phản bội Nguyễn Ánh tiếp tay, là cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân
Các tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương chạy theo đường núi [[Chân Lạp]] mà về Xiêm. Nguyễn Ánh cùng Lê Văn Duyệt trốn đi [[Trấn Giang]] với vài chục người. Nguyễn Ánh sai Mạc Tử Sinh và Cai cơ Trung (cậu Châu Văn Tiếp) sang Xiêm trước báo tin, còn mình thì theo đường thủy qua đảo Thổ Châu<ref name="tt198">{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=198}}.</ref> rồi về Cổ Cốt với một nhóm nhỏ quân tướng.<ref name="autogenerated8" /> Thời gian này, cuộc sống của Nguyễn Ánh khốn khổ đến mức [[Nguyễn Văn Thành (quan nhà Nguyễn)|Nguyễn Văn Thành]] phải đi làm ăn cướp nuôi chủ và bị đánh suýt mất mạng.<ref>Nguyễn Khắc Thuần (2005), Danh tướng Việt Nam, tập 3, Việt Nam: Nhà Xuất bản Giáo dục, tr. 195</ref>
Hàng 159 ⟶ 160:
Các sử gia về sau cho rằng tuy là ký kết dưới danh nghĩa Nguyễn Ánh, nhưng người chịu trách nhiệm về việc soạn ra các điều khoản đặc biệt có lợi cho phía [[Pháp]] trong hiệp ước này có thể là Giám mục [[Bá Đa Lộc]] chứ không phải là chính bản thân Nguyễn Ánh; nếu không có lệnh đình chỉ việc thực thi điều ước thì khi trao đổi văn kiện chưa chắc Nguyễn Ánh đã chịu chấp nhận một hiệp ước bất bình đẳng như thế này.<ref name="nvk"/> Nhưng dù như thế nào, [[Hiệp ước Versailles (1787)|Hiệp ước Versailles năm 1787]] đã không thành hiện thực (do cuộc [[Cách mạng Pháp]] năm [[1789]] đã lật đổ Hoàng gia Pháp).<ref name="Nguyễn Quang Trung Tiến">{{harvnb|Nguyễn Quang Trung Tiến|1999}}.</ref>
Tuy nhiên Hiệp ước Versailles vẫn trở thành một di họa đối với [[Việt Nam]]. Về sau, Pháp đã dựa vào hiệp ước này để làm cớ yêu cầu [[nhà Nguyễn]] cắt đất, và sau đó xâm lược Việt Nam vào năm [[1858]]. Giáo sư [[Trần Văn Giàu]] nhận xét:<ref>
:''...đúng là sĩ quan Pháp đã giúp nhiều cho Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn. Cho nên trong triều đình [[Huế]], đến khi Gia Long lên ngôi, vẫn còn thấy mấy quan đại thần mắt xanh tóc đỏ. Khỏi phải nói trắng ra, các quan đại thần đó như Dayot, Chaigneau,
Sau này tác giả Faure chép truyện Bá Đa Lộc, có nuối tiếc rằng nếu Hiệp ước được Pháp thực hiện thì quân Pháp có thể chiếm được Việt Nam sớm hơn mấy chục năm:
:''
==Về nước và củng cố thế lực==
Hàng 237 ⟶ 238:
Có nguyên liệu rồi, Nguyễn Ánh ra sức đốc thúc đóng tàu: năm [[1789]] ông đóng được 40 chiếc thuyền và 100 chiếc thuyền biển; hai năm sau đóng thêm được 100 chiếc với gỗ ván lấy từ rừng Quang Hóa và rừng [[Chân Lạp]]. Đến năm [[1793]], Nguyễn Ánh cho mua hẳn một chiến hạm cũ của [[Châu Âu]] rồi sai người gỡ ra để sao chép lại.<ref name="tnqt141142"/> Nguyễn Ánh đích thân giám sát việc đóng những chiếc thuyền theo kiểu này.<ref name="tnqt141142"/> Nhờ tích cực vậy nên ngay cùng năm, quân Nguyễn đóng được những chiến hạm nổi tiếng là Long Ngư, Long Thượng, Long Hưng, Long Phi, Bằng Phi, Phụng Phi, Hồng Nhi, Loan Nhi, Ưng Nhi (trong này quan trọng nhất là ba chiếc Long Phi được trang bị đến 32 khẩu đại bác, Phụng Phi và Bằng Phi có 26 khẩu) với sức chứa trên 300 người mỗi thuyền.<ref name="tnqt141142">{{harvnb|Tôn Nữ Quỳnh Trân|2013|pp=141-142}}.</ref> Những năm tiếp theo, Nguyễn Ánh vẫn tiếp tục kiên nhẫn cho đóng thêm thuyền như năm [[1796]] cho đóng thêm 15 chiến hạm hiệu là "Gia" và xếp theo [[tam tài]] cùng [[can chi|thập nhị chi]]: Thiên, Địa, Nhân, Tý, Sửu, Dần, Mão... cho đến Tuất, Hợi là đủ 15 chiếc.<ref name="tnqt141142"/> Đến năm [[1800]], cho đóng thêm 15 chiếc thuyền biển nữa và [[1801]] thì có thêm 200 hạm có tên là Anh, Vũ, Thước, Nga, Quyên, Phu, Lệ, Diên, Chiêu, Ly.<ref name="tnqt141142"/> Nhờ tích cực vậy, có khi mỗi 2 năm mà Nguyễn Ánh đóng thêm gần được 300 [[tàu pháo|pháo hạm]] và 10 năm thì tổng số thuyền của Nguyễn Ánh lên được gần 1.200 chiếc.<ref name="tnqt141142"/>
Các chính sách phát triển kinh tế-quân sự này đã giúp rất lớn cho quân đội của Nguyễn Ánh, ông đã phát triển lên được một đội quân có thể cạnh tranh nổi với Tây Sơn: theo [[John Barrow]], một quý tộc người Anh du lịch nhiều nơi và là kiểm toán viên tòa Đại sứ Anh Quốc tại [[Trung Quốc]] năm [[1793]], thì quân số của Gia Định đầu [[thế kỷ XIX]] lên tới 139.800 người.<ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|p=229-230}}.</ref> Thủy binh của Nguyễn Ánh cũng trở nên hùng mạnh và có ưu thế hơn hẳn so với thủy binh của Tây Sơn,<ref>{{Chú thích web | url = http://ivides.vnu.edu.vn/Print.aspx?Culture=vi-VN&q=749 | tiêu đề = Sự nghiệp lẫy lừng trên biển của vua Gia Long | tác giả 1 = GS-TS Nguyễn Quang Ngọc | ngày = 16 tháng 10 năm 2011 | ngày truy cập = 28 tháng
Tới lúc này, đối với nước [[Pháp]], Nguyễn Ánh bắt đầu tìm đối sách về mặt ngoại giao: khoảng năm [[1790]], ông viết quốc thư với đại ý "cảm ơn nước Pháp", nhưng ông không còn cần họ giúp theo [[hiệp ước Versailles (1787)|hiệp ước Versailles năm 1787]] đã ký trước đây nữa.<ref>{{harvnb|Phạm Văn Sơn|2013|p=116}}.</ref> Đồng thời với việc trên là công cuộc giao thiệp với ba nước lớn [[Xiêm|Xiêm La]], [[Chân Lạp]], [[Vạn Tượng]]: ông cho quân chiếm đóng Chân Lạp, giữ quan hệ hòa hiếu với Xiêm La để yên ổn với Vạn Tượng (khi này trong tầm khống chế của Xiêm La), ngoài ra còn có quan hệ với một ít quốc gia nhỏ khác.<ref>{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=530-534}}.</ref> Kết quả là cả ba quốc gia lớn đều có sự giúp đỡ ít nhiều cho Nguyễn Ánh trong cuộc chiến của mình.<ref>{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=531}}.</ref>
Hàng 249 ⟶ 250:
Trong thư gửi cho M. Létondal ngày 14/9/1791, giám mục [[Bá Đa Lộc]] viết:
::''
==Chiến tranh thống nhất (1790-1802)==
Hàng 257 ⟶ 258:
Tháng 4 âm lịch năm [[1790]], Nguyễn Ánh sai [[Lê Văn Quân]] mang 6.000 quân thủy bộ ra đánh chiếm được [[Phan Rí Cửa|Phan Rí]] và [[Bình Thuận]].<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=231}}.</ref> Sau đó, Lê Văn Quân đóng giữ [[Phan Rang – Tháp Chàm|Phan Rang]], Nguyễn Văn Thành giữ Chợ Mơ (Mai Thị), Võ Tánh giữ Phan Rí. Nguyễn Ánh sau đó gọi Nguyễn Văn Thánh và Võ Tánh rút binh về. Tháng 6 âm lịch năm [[1790]], Đô đốc Tây Sơn là Hồ Văn Tự mang hơn 9.000 quân vây đánh Phan Rang, Lê Văn Quân phải về Ỷ Na cố thủ, cầu cứu Nguyễn Ánh. Tháng 7 cùng năm, quân Tây Sơn bao vây Lê Văn Quân và Nguyễn Văn Thành trong thành Phan Rí, Nguyễn Ánh lệnh cho [[Nguyễn Huỳnh Đức]] và Võ Tánh giải cứu. Sợ Tây Sơn lại đánh Bình Thuận, Nguyễn Ánh cho rút quân về Gia Định, cho Lê Văn Quân về giữ Hưng Phước.<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|pp=233-235}}.</ref>
Đến năm [[1792]], Quang Trung sai cướp biển Tề Ngôi quấy phá vùng biển Bình Khang, Bình Thuận để quân Nguyễn Ánh phải phòng bị. Tháng 6 năm 1792, Nguyễn Ánh dò biết Nguyễn Nhạc tập trung nhiều chiến thuyền ở của biển Thị Nại mà ít phòng bị, liền lợi dụng mùa gió Nam, ông cho hai tướng [[Nguyễn Văn Trương]], [[Nguyễn Văn Thành (quan nhà Nguyễn)|Nguyễn Văn Thành]] và hai sĩ quan đánh thuê người Pháp là [[Jean-Marie Dayot|Dayot]] và [[Philippe Vannier|Vannier]] đi trước, tiến quân đánh và đốt phá thủy trại Tây Sơn tại [[Thị Nại]] rồi rút về,<ref>{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|pp=153}}.</ref> tháng 7 thì Nguyễn Ánh lại đến đóng ở Phan Rang,<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|
Sau khi chiến thắng quân Thanh, vua [[Nguyễn Huệ|Quang Trung]] chuẩn bị phối hợp với Nguyễn Nhạc đem quân vào Nam đánh Gia Định nhằm triệt để đánh bại thế lực của Nguyễn Ánh, thu phục miền Nam bộ và thống nhất đất nước. Quang Trung dự định phát động chiến dịch rất lớn, huy động hơn 20<ref>{{harvnb|Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng|1976|p=323}}.</ref>-30 vạn<ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|p=258}}.</ref> quân thủy bộ, chia làm ba đường. Chính các [[giáo sĩ]] Pháp giúp Nguyễn Ánh lúc đó cũng rất lo lắng và dự liệu Nguyễn Ánh khó lòng chống lại được Tây Sơn trận này. Trong thư gửi cho M. Létondal ngày 14/9/1791, giám mục Bá Đa Lộc viết:
:''
Tuy nhiên vận may lại đến với Nguyễn Ánh khi vua [[Quang Trung]] đột ngột qua đời ([[1792]]), con là [[Nguyễn Quang Toản]] còn nhỏ tuổi lên nối ngôi, hiệu là Cảnh Thịnh. Quang Toản còn quá nhỏ (9 tuổi) nên không đủ sức lãnh đạo, khiến cho Tây Sơn bắt đầu khủng hoảng và chia rẽ.<ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=276-277}}.</ref> Loạn lạc liền nổ ra ở Bắc Hà: sĩ phu trung thành với [[nhà Lê]] nổi lên tôn [[Lê Duy Cận]] ([[Đại Nam thực lục|Thực lục]] ghi là Lê Duy Vạn, con [[Lê Hiển Tông]]) làm minh chủ, Duy Cận liên lạc với Nguyễn Ánh để cùng đánh Tây Sơn,<ref>{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=535}}.</ref> việc này góp phần làm cho [[nhà Tây Sơn]] nhanh chóng suy yếu. Nội bộ Tây Sơn xảy ra tranh chấp, quyền hành rơi vào tay ngoại thích [[Bùi Đắc Tuyên]].<ref name="harvnb24">{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|pp=155}}.</ref> Nguyễn Nhạc lại nghi ngờ Quang Toản, càng tạo thuận lợi cho Nguyễn Ánh.<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=261}}.</ref> Nhân vào thế đó, Nguyễn Ánh ra sức mở các đợt tấn công ra [[Quy Nhơn]] theo nguyên tắc đã định trước đó: ''"Gặp nồm thuật thì tiến, vãn thì về, khi phát thì quân lính đủ mặt, về thì tản ra đồng ruộng".''<ref>{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|pp=280-281}}.</ref>
Hàng 273 ⟶ 274:
Cũng trong thời gian này, Nguyễn Ánh sử dụng mối quan hệ hữu hảo của mình với vua Xiêm để mở thêm một cánh quân từ phía Tây: Nguyễn Ánh yêu cầu vua Xiêm cho [[Thoại Ngọc Hầu|Nguyễn Văn Thoại]] (vốn đang đi sứ ở Bangkok) sang [[Vương quốc Viêng Chăn|Vạn Tượng]] nhằm cùng với nước này phối hợp đánh Tây Sơn và vua Xiêm đồng ý.<ref name="NgaosīvatNgaosyvathn1998"/> Đến khoảng năm [[1793]], vua Xiêm cho phép Nguyễn Ánh đưa quân vào Vạn Tượng để tạo thêm nghi binh áp lực đối với khu vực trấn Nghệ An của Tây Sơn.<ref name="NgaosīvatNgaosyvathn1998"/> Thời gian sau, tướng Nguyễn Văn Thoại cùng với vua Vạn Tượng [[Inthavong]] (Chiêu Ấn trong tiếng Việt) đã rất thành công trong kế hoạch quấy rối Tây Sơn từ phía Tây (tuy nhiên việc này cũng khiến Xiêm trở nên nghi ngờ mối quan hệ Vạn Tượng-Nguyễn Ánh).<ref name="NgaosīvatNgaosyvathn1998">{{harvnb|Mayurī Ngaosīvat & Pheuiphanh Ngaosyvathn|1998|p=101-102}}</ref>.
Tháng 3 âm lịch năm [[1794]], Quang Toản sai [[Phạm Công Hưng|Phạm Văn Hưng]] và [[Trần Quang Diệu]] vào Quy Nhơn. Quân Nguyễn ban đầu gặp Tây Sơn là rút chạy khiến cho Tây Sơn tiến quân nhanh chóng: Tây Sơn đánh được tới tận vùng [[Ba Ngòi]], [[Khánh Hòa]] và sau đó là thủy bộ phối hợp vây thành Diên Khánh (khi này do [[Nguyễn Phúc Cảnh]] và [[Bá Đa Lộc]] trấn giữ).<ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=278-279}}.</ref> [[Phạm Công Hưng|Nguyễn Văn Hưng]] dẫn hơn 40.000 quân bộ tiến đánh [[Phú Yên]], Trần Quang Diệu mang thủy quân đánh [[Nha Trang]].<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|
Tháng 8 âm lịch năm [[1794]], Nguyễn Ánh cho Thái tử Cảnh về Gia Định, tháng 9, Nguyễn Ánh cũng về Gia Định, để một mình [[Võ Tánh]] ở lại giữ Diên Khánh.<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|pp=280}}.</ref> Tháng 11 âm lịch năm [[1794]], [[Trần Quang Diệu]] kéo quân bao vây thành Diên Khánh còn Lê Trung cắt đường tiếp viện cho Võ Tánh tại Bình Thuận.<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=283}}.</ref> Đến năm [[1795]], Tây Sơn phản công, họ cho quân nhiều lần vào đánh [[Phú Yên]], vây [[thành cổ Diên Khánh|thành Diên Khánh]] lần nữa, và còn tìm cách mua chuộc Xiêm La với mục đích cô lập Nguyễn Ánh.<ref name="harvnb24"/> Tây Sơn định dùng kế "viễn giao cận công" (''hòa xa đánh gần'') nên mời Xiêm La hợp tác.<ref name="qsq284"/> Tuy vậy, Nguyễn Ánh và vua Xiêm [[Rama I]] vốn có quen biết từ lâu nên định hợp sức lừa lại Tây Sơn, cùng phối hợp, quân Xiêm đánh đường núi, quân Nguyễn đánh đường thủy, giành lấy [[Phú Xuân]], cô lập [[Quy Nhơn]]. Kế hoạch này không thành vì Xiêm bận đối phó quân [[
Quân Nguyễn dẫu lâm vào thế phòng thủ cũng ra sức chống cự, nhiều lần kìm hãm, thậm chí là đánh lại được quân Tây Sơn nhưng vẫn không ngăn được dòng tiến quân của Tây Sơn. Tướng [[Lê Trung]] tiến sâu vào lãnh thổ của quân Nguyễn, đánh chiếm được đến tận [[Phan Rí Cửa|Phan Rí]].<ref>{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=542}}.</ref><ref name="mmkkllcdm">{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=281-282}}.</ref> Tháng 2 âm lịch năm [[1795]], Nguyễn Ánh ra sức phản công: cho Thái tử Cảnh giữ Gia Định, ông chia các tướng trấn giữ nhiều nơi nhằm kiềm hãm Tây Sơn rồi tự mình đem binh đi cứu Diên Khánh, có lúc đánh ra tận Phú Yên để tạo gọng kiềm kẹp quân Tây Sơn.<ref name="mmkkllcdm"/><ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=289}}.</ref> Mặc cho cố gắng vậy, cho tới thời điểm [[tháng tư|tháng 4]] năm [[1795]], mọi nỗ lực của quân Nguyễn đã không thể phá được Tây Sơn mà chỉ tạo ra thế giằng co qua lại. Chiến cục giằng co này đặc biệt rõ ở các khu vực Ninh Thuận - Khánh Hòa; trong khi thành Diên Khánh vẫn bị Tây Sơn vây chặt.<ref name="mmkkllcdm" />
Hàng 319 ⟶ 320:
Không chỉ tru di gia tộc của vua nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh còn truy sát cả dòng họ của một số danh tướng nhà Tây Sơn. Trong bút ký "Còn mãi đến bây giờ". Hoàng Phủ Ngọc Tường ghi rằng nhánh họ Bùi của nữ tướng [[Bùi Thị Xuân]] đã bị Gia Long giết sạch. Dòng họ của tướng [[Trần Quang Diệu]] bị truy sát, con cháu của ông phải dùng cách ''"sanh vi Nguyễn, tử vi Trần"'', tức là đổi họ từ Trần sang Nguyễn, nhưng khi mất sẽ ghi trên bia mộ là họ Trần (để nhắc nhở con cháu về dòng họ đích thực của tổ tiên).
Không chỉ trả thù những người theo nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh còn truy sát cả những người họ hàng rất xa (đã cách nhau cả chục đời) của Nguyễn Huệ. Theo sách ''"Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung"'' của PGS sử học [[Đỗ Bang]], thời kỳ đầu khi Gia Long lên ngôi, đã chỉ dụ cho dân địa phương ở xã Hưng Nguyên, tỉnh [[Nghệ An]] (nơi cụ tổ 10 đời của anh em nhà Tây Sơn từng sống vào 200 năm trước đó) rằng: ''
Việc làm này của ông về sau bị sử sách nói nhiều đến mức độ thiên lệch cả về công và tội của Nguyễn Ánh. Theo phân tích của các sử gia, cuộc báo thù này có nhiều nguyên nhân:
* Trả thù cho những việc Tây Sơn đã làm với các chúa Nguyễn là gia tộc của Nguyễn Ánh: Chúa Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Dương cùng các vương thất họ Nguyễn đều bị Tây Sơn truy sát và giết hại. Nguyễn Ánh còn tuyên bố rằng Tây Sơn đã quật lăng mộ tám chúa Nguyễn và lấy hài cốt ném xuống sông (điều này vẫn còn là nghi vấn).
* Trả thù cho những việc Tây Sơn đã làm với bản thân Nguyễn Ánh trước kia: quật lăng mộ của cha ông là Nguyễn Phúc Luân và lấy hài cốt ném xuống sông, các anh em ruột của ông là [[Nguyễn Phúc Đồng]], [[Nguyễn Phúc Điển]], các anh em họ như [[Nguyễn Phúc Hạo]], [[Nguyễn Phúc Mân]] đều bị quân Tây Sơn giết chết, em họ ông là công chúa [[Nguyễn Phúc Ngọc Tuyền]] phải tự sát khi bị quân Tây Sơn làm nhục, và cả những nỗi khổ sổ trong những ngày tháng lênh đênh trốn chạy.<ref name="ctt"/><ref>{{harvnb|Oberdorfer|2001|p=203}}.</ref><ref name="vnk2"/>
* Dùng cuộc trả thù để tỏ rõ uy thế, làm khiếp sợ và buộc những người chống đối (ở đây chủ yếu là các cựu thần [[nhà Hậu Lê|Lê]]-[[Chúa Trịnh|Trịnh]]) phải quy thuận trước vương triều mới.{{efn|{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|pp=285-286}} sách 54 vị Hoàng đế Việt Nam, do Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân ấn hành (có dẫn ở phần thư mục) ghi như sau ''..Trước những hành động như vậy, sách sử xưa nay nói nhiều về chính sách hành động cứng rắn của vua Gia Long, nhiều đến mức thiên lệch cả ý kiến khen chê ông vua khai sáng triều Nguyễn. Gia Long đã tìm cách xóa cho kỳ hết những dấu tích về triều Tây Sơn, nhất là đối với [[Quang Trung]], người mà đương thời đã được dân tộc tôn vinh với chiến công huy hoàng trong việc đánh đuổi quân xâm lược [[Mãn Thanh]]. Sự tàn bạo này đã phá hủy gần như toàn bộ di sản văn hóa lịch sử triều Tây Sơn, một triều đại tuy ngắn ngủi nhưng đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong [[thế kỷ XVIII]] với nhiều biến cố lịch sử khác thường. Tuy nhiên, phải chăng Gia long xóa sạch dấu vết của nhà Tây Sơn chỉ vì trả thù cá nhân? Chắc hẳn vị vua này không thiển cận như thế? Tất nhiên, Tây Sơn bị trả thù vì những năm tháng lênh đênh phiêu bạt, vì sự tan nát vương nghiệp của các chúa Nguyễn cũng được xem là một lý do. Nhưng còn có một lý do sâu xa hơn, đó là chọn một giải pháp tối ưu cho vương triều ông mới thành lập. Triều Tây Sơn mà Gia Long gọi là giặc Tây cũng là kẻ thù của vương triều Lê-Trịnh. Dù vương triều này đã sụp đổ nhưng các cựu thần của vương triều cũ vẫn còn rải rác khắp nơi. Trừng phạt nghiêm khắc triều Tây Sơn còn để giương cao uy vũ, cảnh báo và khống chế mọi thế lực đối lập phải quy thuận theo vương triều mới. Thực tế cho thấy, sau khi vua [[Quang Trung]] mất, Tây Sơn đã sụp đổ, lực lượng còn lại quá bé nhỏ, nội bộ thì lục đục, đem quân đánh nhau, vua trẻ Quang Toản còn nhỏ tuổi, điều này đâu có đáng phải lo sợ để ra quá tay tàn bạo? Tàn dư của triều Tây Sơn là không đáng kể nhưng Gia Long vẫn thẳng tay đàn áp vì một lần giương cung, bắn tên, nhà vua đã đạt được hai mục đích: trả thù và kiềm chế, răn đe những lực lượng muốn trỗi dậy để phục hưng chống lại vương triều mới....''}} Có lẽ vì vậy, Nguyễn Ánh không hề tìm cách che đậy sự tàn bạo của mình trong việc này. Ông tuyên bố: ''"Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh [[Xuân Thu]]"'' (theo tích [[Công Dương truyện]], [[
Trong các đánh giá về sau về sự việc này, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Ánh đã thực hiện trả thù quá tay, giết hại nhiều người không liên quan và "đôi lúc rất tiểu nhân".<ref name="vnk2">{{harvnb|Vũ Ngọc Khánh|2008|p=143}}.</ref><ref name="nkt"/>
Hàng 331 ⟶ 332:
==Lên ngôi hoàng đế==
Trước năm 1802, các chúa Nguyễn (và kể cả Nguyễn Ánh) tuy cai trị Đàng Trong độc lập nhưng trên danh nghĩa họ vẫn coi vua Lê là chính thống của nước Việt; ngay cả khi quân Thanh xâm lược, Nguyễn Ánh vẫn ủng hộ [[Lê Chiêu Thống]] như
Sau khi đánh bại Tây Sơn, việc phải xử trí với nhà Lê là một vấn đề hết sức khó xử đối với Nguyễn Ánh, bởi nếu lên ngôi vua thì ông ta sẽ mang tiếng là ''"phản nghịch, bề tôi cướp ngôi"''. Cuối cùng, Nguyễn Ánh vẫn quyết định lên ngôi hoàng đế. Ngày 5/1/1802, Nguyễn Ánh làm lễ tế trời đất để lên ngôi, đặt niên hiệu là Gia Long, ra chiếu tuyên cáo đế vị với thiên hạ: ''
Gia Long lên ngôi là nhờ chiến thắng sau cuộc nội chiến với nhà Tây Sơn chứ không phải bằng một chiến thắng chống giặc ngoại xâm lẫy lừng như các vương triều trước. Sự lên ngôi không đủ chính danh là một trở lực không nhỏ trong việc cai trị. Ở Bắc Hà, tư tưởng hoài Lê vẫn còn in đậm trong tâm tư của số đông dân chúng. Đặc biệt là trong đội ngũ sĩ phu, quan lại Bắc Hà khi lực lượng này vẫn xem nhà Lê là chính thống, còn họ Nguyễn chỉ là
:''
Ở phía Nam thì nhiều người lại nhớ về [[nhà Tây Sơn]]. Hành động trả thù nhà Tây Sơn một cách thái quá của Nguyễn Ánh đã tạo ra những ấn tượng xấu. Gia Long đã không đủ rộng lượng để vượt qua được những hận thù của dòng họ để có một cái nhìn hướng đến
==Chính sách và cai trị==
Hàng 404 ⟶ 405:
===Chính sách xã hội===
[[Tập tin:Imperial Academy of Hue.jpg|240px|nhỏ|trái|[[Quốc Tử Giám (Huế)|Quốc Tử Giám tại Huế]], một trong những công trình đầu tiên Gia Long cho xây dựng để phát triển lại giáo dục thời hậu chiến. Dưới thời vua Gia Long, [[Minh Mạng]], Quốc Tử Giám được xây tại địa phận An Ninh Thượng, huyện [[Hương Trà]], cách kinh thành [[Huế]] chừng 5 km về phía tây, trường nằm cạnh [[
Thấy các quan đầu triều của mình đều chỉ là quan võ, Gia Long lưu ý đến việc học hành thi cử trong nước để tuyển lựa quan văn. Ông tổ chức lại các [[
Về luật pháp, Gia Long cho soạn bộ luật mới có tên gọi là [[Hoàng Việt luật lệ]] (còn được gọi là "luật Gia Long"), do Tổng trấn Bắc Thành [[Nguyễn Văn Thành (quan nhà Nguyễn)|Nguyễn Văn Thành]] chủ biên bao gồm 22 quyển và 398 điều,<ref name="harvnb44">{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|p=283}}.</ref> bộ luật này, dù có đôi chỗ cải biến, gần như chép nguyên mẫu từ luật của [[nhà Thanh]]<ref name="harvnb77"/> cho nên nhìn tổng thể khá khắc nghiệt và không được tiến bộ như bộ [[luật Hồng Đức]] của [[nhà Hậu Lê|nhà Lê]].<ref name="Nguyễn Khắc Thuần 2005 306"/>
Hàng 472 ⟶ 473:
;Vạn Tượng
[[Tập tin:Tonkin1893.jpg|nhỏ|phải|250 px|
Đối với Vạn Tượng, Việt Nam và Xiêm La hình thành một thế giằng co ảnh hưởng: vua [[Vạn Tượng]] [[Inthavong]] trước kia có cùng hỗ trợ Gia Long đánh Tây Sơn thường tỏ ra ngả về phía Việt Nam nhiều hơn là phía Xiêm dù lúc này cả Xiêm và Việt Nam đều đang có ảnh hưởng tại [[Vạn Tượng]].<ref name="mp100105" /> Gia Long đưa ra nhiều chính sách chiêu dụ Inthavong: tại Việt Nam, Inthavong được đón tiếp dưới danh hiệu [[vua|quốc vương]], trong khi ở Xiêm ông vua này chỉ được gọi là Chao (lãnh chúa); và vào khoảng năm [[1802]] Gia Long công nhận quyền cai trị của Inthavong trên đất [[Xiengkhuang|Xiang Khouang]].<ref name="mp100105" /> Vị vua nối ngôi của Inthavong là [[Anouvong|Chao Anou]] cũng tiếp tục chính sách tương tự, và Việt Nam tuy vẫn đối xử tốt với [[Vạn Tượng]] nhưng vẫn vị nể Xiêm trong vấn đề về Anou.<ref name="mp100105">{{harvnb|Mayurī Ngaosīvat & Pheuiphanh Ngaosyvathn|1998|p=98-100}}.</ref>
Năm [[1802]], Gia Long còn đem đất [[Trấn Ninh]]
===Chính sách thuế khóa===
Hàng 556 ⟶ 555:
Thuế sẽ được giảm nếu địa phương gặp thiên tai địch họa dựa theo mức độ thiệt hại. Ngoài ra, nếu nhà nào có người đi làm đường, đào sông, xây thành... cũng được giảm thuế.<ref name="harvnb4"/> Nếu đã nộp thuế sản vật thì miễn thuế đinh,<ref name="harvnb2"/> thuế dành cho các thương thuyền nước ngoài cũng được định lại: cứ dựa trên kích thước thuyền mà đánh thuế nhiều hay ít.<ref name="harvnb3"/> Để tạo cơ sở tính thuế,<ref name="Tarling1"/> cùng với điền bạ (để quản lý ruộng đã nêu) dân chúng được quản lý qua sổ đinh bạ: 5 năm làm một lần mọi người từ thường dân tới quan lại từ 18 tuổi đến 59 tuổi đều phải được thống kê vào sổ đinh.<ref name="harvnb3"/>
Nhìn chung, thuế khóa mà người dân phải chịu vào thời Gia Long nặng hơn so với thời nhà Tây Sơn. Thời vua Quang Trung, nhà Tây Sơn chỉ giữ lại thuế đinh 1 quan 2 tiền, bỏ hẳn thuế điệu, đến thời Gia Long thì người dân phải đóng thêm 3 tiền hoặc 6 tiền thuế điệu, cộng thêm 1 hoặc 2 bát gạo. Một giáo sĩ người Pháp tên Guérard nhận xét rằng Gia Long đánh thuế quá nặng lên dân chúng: ''"Vua Gia Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách, sự bất công và lộng hành làm cho người ta rên xiết hơn cả ở thời Tây Sơn; thuế má và lao dịch thì tăng lên gấp ba"''. Đối với miền núo, Gia Long ban hành các loại thuế đánh vào lâm thổ sản ở vùng này, làm cho ''"dân Man quanh năm nộp thuế không lúc nào rỗi''<ref name=autogenerated12>[[Đại Nam thực lục]], tập 27, tr. 140.</ref>, hậu quả là ''"dân phải nhặt củ rau và quả ở núi để ăn cho no bụng"''<ref name=
Chính vì việc tăng thuế khóa quá nặng so với thời Tây Sơn nên dân chúng rất bất bình, góp phần tạo nên nhiều cuộc khởi nghĩa chống nhà Nguyễn vào thời Gia Long và tâm lý hoài niệm triều Tây Sơn của người dân Việt Nam trong thế kỷ 19.
Hàng 581 ⟶ 580:
Một nguyên nhân khiến nhiều cuộc nổi dậy xảy ra là do chính sách thuế khóa và lao dịch. Một giáo sĩ người Pháp tên Guérard nhận xét rằng Gia Long đánh thuế quá nặng lên dân chúng: ''"Vua Gia Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách, sự bất công và lộng hành làm cho người ta rên xiết hơn cả ở thời Tây Sơn; thuế má và lao dịch thì tăng lên gấp ba".''<ref name="đượclsvn16" /> Việc xây thành [[Phú Xuân]] và đào [[kênh Vĩnh Tế]] phải huy động hàng vạn dân phu đi lao dịch. Một người Pháp là Borel viết năm [[1818]] mô tả việc xây thành [[Phú Xuân]] (Huế):
:''
Chỉ mấy năm sau khi Gia Long lên ngôi, nhà truyền giáo Bissachere viết: ''
:''
Đối với người dân tộc thiểu số, vua Gia Long đã ban hành các loại thuế đánh vào lâm thổ sản ở vùng người dân tộc, làm cho ''"dân Man quanh năm nộp thuế không lúc nào rỗi"''.<ref name=autogenerated12 /> Hậu quả là ''"dân phải nhặt củ rau và quả ở núi để ăn cho no bụng".''<ref name=
Sự tham nhũng của quan lại cũng là một nguyên nhân, như Chaigneau người Pháp đã ghi lại năm [[1807]]: ''
Để đối phó, Gia Long đã ra sức đánh dẹp, thi hành nhiều chính sách vỗ an và cử nhiều tướng tài như [[Lê Chất]], [[Lê Văn Duyệt]] lưu đóng ở khu vực Bắc thành nhiều năm nhưng vẫn không sao hết được.<ref name="npq131138"/> Ở các khu vực miền Trung, các phong trào nổi dậy chủ yếu chỉ mang tính lẻ tẻ,<ref>{{harvnb|Nguyễn Phan Quang|2004|p=138}}.</ref> tuy cũng có phong trào lớn như là [[Nổi dậy ở Đá Vách|cuộc nổi dậy của người Thượng ở Đá Vách]] kéo dài qua tận các đời vua sau.<ref>{{harvnb|Nguyễn Phan Quang|2004|p=139-142}}.</ref>
Hàng 656 ⟶ 655:
==Qua đời==
{{xem thêm|Lăng Gia Long}}
[[Tập tin:Án thờ Gia Long.jpg|nhỏ|phải|200px|Hương án thờ vua Gia Long trong [[
[[Tập tin:MausoléeGiaLong.JPG|nhỏ|phải|200px|Phần tẩm mộ của [[Thiên Thọ Lăng]], đằng sau hai vòng bửu thành là phần mộ kép của Gia Long và [[Tống Phúc Thị Lan|Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu Tống Thị Lan]] ([[1762]] - [[1814]])]]
Tháng 11 năm [[Mậu Dần]] ([[1818]]), Gia Long lâm bệnh,<ref name="harvnb42"/> ông hạ chiếu cho Thái tử [[Minh Mạng|Nguyễn Phúc Đảm]] thay ông quyết việc nước và cho gọi hai đại thần là [[Lê Văn Duyệt]] và [[Phạm Đăng Hưng]] đến hầu. Ông dặn Thái tử Đảm ''"Đấy là cơ nghiệp gian nan của trẫm, nay giao cho con, con nên cẩn thận giữ gìn... Ta cũng sắp chết, không nói gì, chỉ có một việc là ngày sau phải cẩn thận chớ nên gây hấn ngoài biên".''<ref name="harvnb42"/> Rồi Gia Long sai Thái tử Đảm chép lại lời mình, Nguyễn Phúc Đảm chép một cách ngập ngừng ý muốn bỏ chữ "[[băng hà|băng]]", Gia Long cầm bút viết luôn chữ đó vào.<ref>{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|p=284-285}}.</ref>
Hàng 662 ⟶ 661:
Bệnh ngày càng nặng dần, và Gia Long cố gắng giấu điều này.<ref name="Wilcox2010">{{chú thích sách|author=Wynn Wilcox|title=Vietnam and the West: New Approaches|url=http://books.google.com/books?id=EvqKqpSCpaEC&pg=PA43|year=2010|publisher=SEAP Publications|isbn=978-0-87727-782-8|pages=43–}}</ref> Đây cũng là một trong nhiều nguyên nhân Gia Long bí mật triệu bác sĩ [[Treillard]] của tàu buôn Pháp ''Henri'', khi này đang được mời để trị bệnh cho công chúa thứ chín,<ref>{{chú thích sách|title=Portuguese Studies Review|url=http://books.google.com/books?id=y_4jAQAAIAAJ|year=2001|publisher=International Conference Group on Portugal|page=202}}</ref> vào cung chữa bệnh cho ông.<ref name="Wilcox2010"/> Treillard (có thể có cả sự giúp đỡ của bác sĩ [[J. M. Despiau]], một bác sĩ người Pháp thân cận của vua Gia Long) bí mật điều trị cho nhà vua trong khoảng bốn tháng.<ref name=autogenerated13>{{chú thích sách|author=Wynn Wilcox|title=Vietnam and the West: New Approaches|url=http://books.google.com/books?id=EvqKqpSCpaEC&pg=PA50|year=2010|publisher=SEAP Publications|isbn=978-0-87727-782-8|pages=50}}</ref> Và sau đó vị bác sĩ này cùng với đoàn người trên tàu ''Henri'' rời đi vào khoảng ngày [[2 tháng 11]] năm [[1819]].<ref name="Wilcox2010"/> Năm tháng sau đó, sức khỏe nhà vua ngày càng suy yếu dần và đến ngày [[19 tháng 12]] năm [[Kỷ Mão]] (tức ngày [[3 tháng 2]] năm [[1820]]),<ref name="harvnb40">{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|p=285}}.</ref> vua Gia Long qua đời, hưởng thọ 59 tuổi, ở ngôi 18 năm, [[miếu hiệu]] là '''Thế Tổ''' (世祖).<!-- có bên phần [[chôn cất]] rồi, xem ở dưới! --><ref name="harvnb30">{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|p=184}}.</ref>
Về nguyên nhân qua đời, nhà nghiên cứu-lương y Lê Hưng VKD sau khi nghiên cứu ''"ngự dược nhật ký"'' năm [[Kỷ Mão]] - [[1819]] (nhật ký ghi chép lại 94 lần kê toa (gồm 24 bài thuốc) của [[Thái y viện]] triều Nguyễn đã dùng để chữa bệnh cho Gia Long), cho rằng nhà vua có thể đã bị chứng [[Xơ gan|xơ gan cổ chướng]] mà qua đời. Thời đó đây là bệnh không có cách chữa. Ông còn nhận xét ''"Phải chi thời đó có khả năng "cận lâm sàng" như hiện nay thì vị vua "khai sáng triều Nguyễn" đã có thể sống vượt qua năm Kỷ Mão [[1819]] (vì phát hiện được sớm bệnh trạng thuộc hệ tiêu hóa, do ký sinh trùng tai hại gây
[[Tập tin:Tombe de Gia Long.JPG|nhỏ|phải|200px|Phần mộ Gia Long trong khuôn viên Lăng Thiên Thọ. Được chôn cạnh Gia Long là bà [[Tống Phúc Thị Lan|Thừa Thiên Cao Hoàng hậu Tống Thị Lan]]]]
Hàng 701 ⟶ 700:
Về thời kỳ Gia Long, giáo sư [[Đại học Western Connecticut State]] Wynn Wilcox mô tả ông là một chính trị gia có hiểu biết, người hiểu và có thể tác động vào tính phức tạp của triều đình ngay khi ông đang hấp hối.<ref name="Wilcox2010" /> [[Encyclopædia Britannica|Bách khoa toàn thư Anh]] thì ghi nhận ông là một vị vua cẩn trọng, bảo thủ, điều đã ảnh hưởng tới các triều vua nối ngôi ông.<ref>{{chú thích sách|title=The New Encyclopaedia Britannica: Micropaedia (10 v.)|url=http://books.google.com/books?id=Rw48AAAAMAAJ|year=1983|publisher=Encyclopaedia Britannica|isbn=978-0-85229-400-0|page=526}}</ref> Còn nhà nghiên cứu [[Đông Á]] Joseph Buttinger thì mô tả Gia Long là một [[Nho giáo|Nho sĩ]] nghiêm khắc.<ref name="Buttinger1972">{{chú thích sách|author=Joseph Buttinger|title=A dragon defiant: a short history of Vietnam|url=http://books.google.com/books?id=Yg8sAAAAMAAJ|year=1972|publisher=Praeger|page=56}}</ref> [[Keith Weller Taylor]] thì nhận xét nhà vua vẫn giữ các thói quen từ thời chiến trong cung đình qua việc ông ''"không vội vàng nhưng rất quyết đoán"'' khi giải quyết chuyện chính sự.<ref name="abcdsxzaasa">{{harvnb|Taylor|2013|p=412-413}}.</ref>
Gia Long rất chán ghét sự rối ren nơi hậu cung do các bà vợ hay đấu đá lẫn nhau. Ông từng tâm sự với một triều thần gốc Pháp là J.B. Chaigneau: ''
==Gia quyến==
Hàng 720 ⟶ 719:
# [[Nguyễn Phúc Ngọc Du]] (阮福玉瑜; [[1761]] - [[1820]]), mẹ là Nguyễn Từ phi, được phong làm ''Phúc Lộc Trưởng công chúa'' (福祿長公主). Hạ giá lấy Cai cơ quận công [[Võ Tánh]].
# [[Nguyễn Phúc Ngọc Tuyền]] (阮福玉璿; ? - [[1782]]), mẹ là Nguyễn Từ phi, chết khi bị Tây Sơn làm nhục. Về sau truy tặng ''Minh Nghĩa Trưởng công chúa'' (明義長公主), thụy là ''Trinh Liệt'' (貞烈). Hạ giá lấy Nguyễn Hữu Thụy (阮有瑞), không con.
# [[Nguyễn Phúc Ngọc Uyển]] (阮福玉琬; [[1765]] - [[1810]]), mẹ là Cung tần Tống thị
===Hậu cung===
Hàng 736 ⟶ 735:
| Chiêu nghi || Trinh Nhã || Nguyễn Thị Điền || || style="text-align:left" |
|-
| Chiêu dung || Trinh Thục || Lâm Thức || || style="text-align:left" |Còn có húy là '''Thi'''. Không rõ năm sinh năm mất, chỉ biết bà mất tại Gia Định{{sfn|Đại Nam thực lục, tập 1|2006|p=704}} trước khi Gia Long lấy lại được Phú Xuân, tức là khoảng trước năm 1802. Năm Gia Long thứ 7 ([[1808]]), mộ phần được đưa về Phú Xuân chôn cất{{sfn|Đại Nam thực lục, tập 1|2006|p=704}}.
|-
| Chiêu dung
Hàng 789 ⟶ 788:
| 2 || Thuận An công<br>(順安公) || Đôn Mẫn<br>(敦敏)|| [[Nguyễn Phúc Hy]]<br>(阮福曦) ||[[1782]] – [[21 tháng 5]] năm [[1801]]||''không rõ'' || style="text-align:left"|Không con. Dưới thời [[Thiệu Trị]] được đổi thờ ở đền Thân Huân.
|-
| 3 || || || [[Nguyễn Phúc Tuấn]]<br>(阮福晙) || ''không rõ'' || Chiêu dung Lâm Thức || style="text-align:left"|Lên 12 tuổi thì mất tại Gia Định{{sfn|Đại Nam thực lục, tập 1|2006|p=704}}. Năm Gia Long thứ 7 ([[1808]]), mộ phần được đưa về Phú Xuân chôn cất{{sfn|Đại Nam thực lục, tập 1|2006|p=704}}. Táng tại khu vực Cầu Bối, phường [[Thủy Xuân, Huế]].
|-
| 4 || '''[[Minh Mạng|Thánh Tổ Hoàng đế]]'''<br>(聖祖皇帝) || '''Nhân Hoàng đế'''<br>(仁皇帝) || Nguyễn Phúc Đảm (阮福膽)<br>Nguyễn Phúc Kiểu (阮福晈) ||[[25 tháng 5]] năm [[1791]] – [[20 tháng 1]] năm [[1841]]||[[Thuận Thiên Cao Hoàng hậu]] ||style="text-align:left"|Hoàng đế thứ hai của [[nhà Nguyễn]].
Hàng 799 ⟶ 798:
| 7 || Diên Khánh vương<br>(延慶王) || Cung Chính<br>(恭正) || [[Nguyễn Phúc Tấn]]<br>(阮福晉) ||[[21 tháng 3]] năm [[1799]] – [[17 tháng 7]] năm [[1854]]|| Chiêu nghi Nguyễn Thị Điền || style="text-align:left"|
|-
| 8 || Điện Bàn công<br>(奠盤公) || Cung Đốc<br>(恭篤) || [[Nguyễn Phúc Phổ]]<br>(阮福普) ||[[3 tháng 5]] năm [[1799]] – [[11 tháng 9]] năm [[1860]]||
|-
| 9 || Thiệu Hóa Quận vương<br>(紹化郡王) || Cung Lương<br>(恭良) || [[Nguyễn Phúc Chẩn]]<br>(阮福晆) ||[[30 tháng 4]] năm [[1803]] – [[26 tháng 10]] năm [[1824]]||[[Thuận Thiên Cao Hoàng hậu]] || style="text-align:left"|
Hàng 850 ⟶ 849:
|-
| 18 || || || Nguyễn Phúc Ngọc Trình<br>(阮福玉珵) || [[1817]] – [[1823]] || Tài nhân Đặng Thị Duyên || style="text-align:left"|Mất sớm. Táng tại khu vực Cầu Bối, phường [[Thủy Xuân, Huế]].
|-
| Không xếp|| || || Nguyễn Phúc Ngọc Dao || ? – ? || ? || style="text-align:left"|Mất sớm. Thụy là Trinh Thục. Thờ tại đền Triển thân (theo Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ).
|-
|}
Hàng 907 ⟶ 908:
''Nhưng một lần nữa, giữa lý thuyết [rằng hệ tư tưởng Nho giáo sẽ thống nhất được lòng người ở Việt Nam] và thực tế luôn luôn là hai thứ khác biệt. Không phải vì Gia Long chọn [[Nho giáo]] là hệ tư tưởng chính thống nên nó sẽ có thể hoạt động hiệu quả ngay. Việc đó đã không xảy ra. Gia Long là một nhà quân sự và ông rất tự hào về việc này. Ông chẳng bao giờ có được thời gian để được học tập về Nho giáo khi còn trẻ và có thể là ông cũng chẳng bao giờ nghĩ nghiêm túc về việc này. Ông đã đạt được sự kính trọng, xây dựng được quân đội và giành được chiến thắng sau cùng cho bản thân vào năm [[1802]] dựa trên tính thực tế, sự sáng tạo của bản thân, khả năng thỏa hiệp và sự chính trực. Thứ hai, Gia Long hiểu rõ về sự mong manh của nước [[Việt Nam]] mới thống nhất sau ba mươi năm nội chiến. Quân đội [[chúa Trịnh]] và Tây Sơn có thể đã bị giải tán, nhưng sự trung thành thì vẫn bị chia rẽ sâu sắc. Những vết thương từ cuộc chiến có thể đã lành, nhưng viết sẹo của nó thì vẫn còn. Sự căm tức và lòng thù hận thường hay lẩn khuất dưới cái vẻ ngoài mỏng manh mang tên sự yên bình. Vị hoàng đế thắng trận đã không thực sự cải thiện điều gì khi ông tiến hành săn đuổi và giết chết tất cả những lãnh đạo và hậu nhân của Tây Sơn, những người mà ông quy trách nhiệm cho việc đồ sát và tận diệt dòng tộc của mình. Điều thứ ba, Gia Long hiểu rất rõ quyền lực về chính trị, quân sự cũng như kinh tế của các gia tộc và lãnh chúa ở các địa phương. Gia tộc [[nhà Nguyễn]] cũng xuất phát là một gia tộc lớn ở địa phương và bản thân Gia Long đã góp phần phát triển một nhóm mới như vậy tại khu vực cơ sở quyền lực của ông ở miền Nam Việt Nam. Sự thật là, đồng minh lâu năm và bạn thân của Gia Long tại Gia Định là tướng [[Lê Văn Duyệt]] trên thực tế đã cai trị miền Nam Việt Nam sau năm [[1802]]. Hoàng đế đã phong thưởng các đồng minh thời chiến của mình bằng các vị trí cao cấp ở khu vực miền Trung và miền Nam. Đó là vì sao mà dù đã đề ra [[Hoàng Việt luật lệ|một bộ luật theo tư tưởng Nho giáo]], khôi phục lại chế độ thi cử khoa bảng, xây dựng kinh đô mới gồm cả một [[Tử Cấm Thành]] của chính mình; Gia Long vẫn duy trì một lực lượng quân sự rất lớn. Ở [[vùng miền Trung]], triều đình cai trị thông qua bốn doanh và bảy trấn quân sự độc lập. Ở khu vực miền Bắc và miền Nam, nhà vua cũng thành lập mỗi vùng năm trấn như vậy. Dưới thời Gia Long, các quan Trấn thủ cũng là một phần của văn hóa chính trị tại Việt Nam có vai trò giống như vị vua theo Nho giáo vậy. Thể chế chính trị song song này đã có ít nhất từ thời trỗi dậy của các họ Mạc, Trịnh và Nguyễn ở thế kỷ XV nếu không là sớm hơn nữa.''|||Christopher Goscha<ref name="Goscha20162">{{chú thích sách|author=Christopher Goscha|title=The Penguin History of Modern Vietnam: A History|url=http://books.google.com/books?id=kTVUCwAAQBAJ&pg=PT54|date=ngày 30 tháng 6 năm 2016|publisher=Penguin Books Limited|isbn=978-0-14-194665-8|pages=55-56}}</ref>}}
Về luật pháp, Gia Long cho soạn bộ luật mới có tên gọi là [[Hoàng Việt luật lệ]] (còn được gọi là "luật Gia Long").<ref name="harvnb44"/> Trong 398 điều thì chỉ có 2 điều là rút từ ''Quốc triều Hình luật'' thời Hậu Lê, vài chục điều luật khác biệt chút ít về từ ngữ so với luật của [[nhà Thanh]] bên Trung Quốc, các điều luật còn lại đều sao chép lại nguyên xi tên gọi lẫn nội dung kể cả các tiểu chú của các điều luật trong
Về chính sách thuế khóa và lao dịch, Gia Long áp mức thuế và lao dịch rất nặng lên dân chúng để chi tiêu cho xây dựng và quân đội. Việc xây thành [[Phú Xuân]] và đào [[kênh Vĩnh Tế]] phải huy động hàng vạn dân phu đi lao dịch. Một người Pháp là Borel viết năm [[1818]] mô tả việc xây thành Phú Xuân ([[Huế]]): ''
::''"Vua Gia Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách, sự bất công và lộng hành làm cho người ta rên xiết hơn cả ở thời Tây Sơn; thuế má và lao dịch thì tăng lên gấp ba".''<ref name="đượclsvn16" />
Chỉ mấy năm sau khi Gia Long lên ngôi, nhà truyền giáo Bissachere viết<ref name="ReferenceA"/>:
:''
===Vấn đề đối ngoại ===
Hàng 923 ⟶ 924:
=== Vấn đề cầu viện quân đội nước ngoài ===
Giáo sư [[Trần Văn Giàu]] nhận xét việc Nguyễn Ánh cầu viện Pháp, cho các sĩ quan Pháp làm quan trong triều đình đã để lại tai họa cho đất nước:<ref>{{Chú thích web|url=http://tuanbaovannghetphcm.vn/luan-ve-nhung-nguyen-nhan-viet-nam-mat-nuoc-ve-tay-phap/|tiêu đề=Luận về những nguyên nhân Việt Nam mất nước về tay Pháp|website=Tuần báo Văn nghệ|ngày truy cập=2023-01-09|archive-date=2017-10-02|archive-url=https://web.archive.org/web/20171002215439/http://tuanbaovannghetphcm.vn/luan-ve-nhung-nguyen-nhan-viet-nam-mat-nuoc-ve-tay-phap/|url-status=dead}}</ref>
{{cquote|
''...đúng là sĩ quan Pháp đã giúp nhiều cho Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn. Cho nên trong triều đình [[Huế]], đến khi Gia Long lên ngôi, vẫn còn thấy mấy quan đại thần mắt xanh tóc đỏ. Khỏi phải nói trắng ra, các quan đại thần đó như Dayot, Chaigneau,
''Cầu viện Pháp, Hiệp ước Versailles đã tạo thành một
{{cquote|
Hàng 936 ⟶ 937:
''Khi suy bĩ, Gia Long biết cầu cứu nước Pháp, đã mục kích được dã tâm đế quốc của Liệt cường Tây Phương trước thời của ngài và cả trong thời ngài, vậy mà không tìm nổi một kế sách giữ nước cho khỏi "Bạch họa", chỉ biết "bế quan tỏa cảng", các triều đại kế tiếp cũng chẳng sáng suốt hơn, làm gì mà không mất nước.|||Phạm Văn Sơn<ref name="Việt Sử toàn thư, tr 417">Việt Sử toàn thư, tr. 417.</ref>}}
Trong bài ''
:''
Sau khi lên ngôi, Gia Long còn đem đất [[Bồn Man|Trấn Ninh]] cắt cho [[vương quốc Vạn Tượng]], việc này cũng bị chỉ trích. Sau hơn 300 năm thuộc về lãnh thổ Đại Việt dưới thời [[nhà Hậu Lê]] và [[nhà Tây Sơn]], Trấn Ninh đã bị Gia Long cắt cho nước khác. Xét về diện tích, đây là lần bị mất lãnh thổ lớn thứ 2 trong lịch sử Việt Nam, chỉ đứng sau việc Tự Đức cắt [[Nam Kỳ lục tỉnh]] cho thực dân Pháp. Xét về nguyên nhân thì lần mất lãnh thổ này là đáng tiếc nhất, vì Gia Long cắt đất Trấn Ninh xem như "quà tặng" chứ không phải vì bị quân đội nước ngoài xâm chiếm.
Hàng 943 ⟶ 944:
Hai sử gia Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng cho rằng: Trong những lần thua trận, ông đều cầu xin người ngoài vào giúp sức nhưng cũng là gián tiếp, ''"rước voi về giày mả tổ"'', ''"đưa hổ vào nhà"'' hay ''"cõng rắn cắn gà nhà"'', gây ra hậu quả và tiền lệ xấu cho vận mệnh dân tộc qua việc cầu cứu Xiêm, cầu cứu Pháp.<ref name="harvnb52">{{harvnb|Nguyễn Lương Bích|Phạm Ngọc Phụng|1976|p=88}}.</ref><ref name="harvnb52"/> Giáo sư [[Đinh Gia Khánh]] cho rằng [[hiệp ước Versailles năm 1787]] của Nguyễn Ánh do Bá Đa Lộc thay mặt ký với Pháp là một hiệp ước ''"bán nước, phản bội dân tộc"''.<ref name="DGK">{{harvnb|Đinh Gia Khánh|2000|pp=173}}.</ref> Riêng tác giả Lý Khôi Việt của tổ chức Viện Phật học Quốc tế ở Hoa Kỳ còn chỉ trích nặng nề hơn mối quan hệ trên qua việc gọi Nguyễn Ánh là ''"một tên đại phản quốc, đại [[Việt gian]]".''<ref>{{Chú thích sách|title=Hai ngàn năm Việt Nam & Phật giáo|author=Lý Khôi Việt|year=1988|publisher=Phật học Việt Quốc tế|pages=tr. 183|url=http://books.google.com/books?id=yEEFAQAAIAAJ&q=%22Nguyen+Anh+chinh%22+%22mot+ten%22&dq=%22Nguyen+Anh+chinh%22+%22mot+ten%22&ei=ePrBS7O4OJncMaXAjc4I&cd=1}}</ref>
Trong tập Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Lịch sử nhân kỷ niệm 200 năm ngày chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút tại [[Tiền Giang]] vào tháng 12/1984, bài tham luận của nhà sử học [[Phan Huy Lê]] đánh giá, nhận xét như sau:<ref>Kỷ yếu Hội nghị khoa học
:''Triều Mạc thỏa thuận với nhà Minh và cắt đất cho giặc. [[Chúa Trịnh]] bất lực để cho [[nhà Minh]] rồi [[nhà Thanh]] lấn cướp nhiều dải đất biên cương. Nguyễn Ánh cầu cứu vua Xiêm và câu kết với chủ nghĩa tư bản [[phương Tây]]. [[Lê Chiêu Thống]] rước quân Thanh vào giày xéo đất nước.''
:''Đây không còn là hành vi bán nước của từng phần tử phong kiến mà là sự phản bội dân tộc của các thế lực phong kiến nắm quyền thống trị. Giai cấp phong kiến đang trải qua một quá trình phân hóa sâu sắc, trong đó từng bộ phận phong kiến cầm quyền, có tính chất đại diện, đã phản bội lợi ích dân tộc và sẵn sàng câu kết với giặc. Kẻ thù của độc lập dân tộc tìm thấy một chỗ dựa, một lực lượng nội ứng ngay bên trong cơ cấu xã hội''
Hàng 959 ⟶ 960:
*Xét về vai vế thì [[chúa Nguyễn]] không phải là vua mà chỉ là quan chức của [[nhà Hậu Lê]], giúp vua Lê cai quản xứ Đàng Trong. Do đó, nếu Nguyễn Ánh muốn rước quân Xiêm vào nước hoặc hứa cắt đất cho Pháp thì phải có chiếu chỉ đồng ý của vua Lê. Thực tế Nguyễn Ánh tự ý mời quân Xiêm, cũng tự ý hứa cắt đất cho Pháp mà không hề có sự đồng ý của vua Lê. Như vậy, kể cả khi xét theo hệ tư tưởng phong kiến đương thời thì việc làm của Nguyễn Ánh cũng không thể bào chữa được, mà còn có thể coi đó là hành vi ''"tự ý đang lãnh thổ của nhà vua cho giặc"'', theo luật phong kiến thì sẽ bị khép vào tội [[Thập ác|Thập Ác bất xá]] - mục ''"Mưu loạn (phản nước theo giặc)"''.
Về phía [[Pháp]], sử gia đương thời Gosselin cho rằng:<ref>Gosselin,
:''Những vị hoàng đế nước Nam, bởi sự bội bạc đối với những người Pháp lẫy lừng đã làm quan cho Gia Long, mà nhờ họ, ông ta [Gia Long] mới có được ngai vàng; bởi sự tàn ác đối với những giáo sĩ đồng bào của chúng ta; bởi sự cứng đầu điên dại bế quan tỏa cảng; bởi sự khinh bỉ nền văn minh [[phương Tây]], vì kiêu căng ngu muội, họ cho là man rợ; bởi sự kiên trì từ chối tiếp xúc với nước ngoài, trừ nước Tầu; những hoàng đế này, tôi nói rằng, phải chịu trách nhiệm sự suy đồi và sụp đổ của nước họ, phải gánh vác một mình, sự nhục nhã trước lịch sử.''
Hàng 1.061 ⟶ 1.062:
| year=2014
| ISBN=
}}. (Bản dịch tiếng Pháp từ ''
* {{Citation
| author=Thụy Khuê
Hàng 1.183 ⟶ 1.184:
| work = Phả đồ Họ Nguyễn
| publisher = Gia tộc Nguyễn Phước
| language =
| author = Gia tộc Nguyễn Phước
| year = 2006
Hàng 1.189 ⟶ 1.190:
}}.
* {{Chú thích
|url
|title
|access-date
|format
|work
|publisher
|language
|author
|year
|archive-date = ngày 19 tháng 8 năm 2008 |archive-url
}}.
* {{Chú thích
Hàng 1.559 ⟶ 1.560:
== Liên kết ngoài ==
{{wikiquote|Gia Long}}
* {{
* {{Britannica|232868|Gia Long (emperor of Vietnam)}}
* {{TĐBKVN|10914}}
|